Huyền thoại các AMA Tây Nguyên
Buôn Ma Thuột. Ngã Sáu. Nằm ở trung tâm thành phố. Nơi giao lộ của sáu đại lộ. Và cũng từ đây tỏa đi muôn nơi đất nước. Ngã Sáu có một bùng binh rộng đặt giữa. Vút lên một tượng đài "Chiến thắng Buôn Ma Thuột" mang hình một chiếc đại nỏ.
Từ xa đã thấy hình dáng một mũi tên đặt trên cánh cung chĩa thẳng lên bầu trời cao xanh mà đầu mũi tên là bức tượng đồng liên khối, biểu tượng của chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên đầu năm 1975. Cánh cung thì ôm trọn một chiếc xe tăng số hiệu 980 đặt ở phía dưới, một hiện vật lịch sử, chiếc xe tăng ấy đã dẫn đầu Đoàn quân Giải phóng tiến vào giải phóng tỉnh lị Đắk Lắk.
[ATTACH=CONFIG]42344[/ATTACH] Buôn Ma Thuột về đêm
Mồng 2 Tết Tân Mão. Ngã Sáu tràn ngập cờ, hoa, bóng bay lộng lẫy sắc màu. Xe cộ giao thông chảy đều như màn trình diễn nơi quảng trường. Và bộn bề người từ khắp nơi về, chen vai thích cánh nơi bùng binh dưới chân tượng đài, để ngắm nhìn, chọn góc quay chụp ảnh, để xôn xao và mỉm cười.
Tôi thấy mình bé bỏng trong cái bộn bề người ấy, lạ mà như quen quen, từ hình sắc người cho tới giọng điệu phương ngữ. Lần đầu đến thành phố Tây Nguyên này, nhưng 36 năm trước lòng tôi đã tới đây. Khi ấy tôi chịu trách nhiệm biên tập "Nhật ký Giải phóng" in trang tư cho một tờ nhật báo. Phương tiện truyền thông viễn thông hồi đó chưa như bây giờ. Hằng ngày qua chiếc máy thu thanh Mẫu Đơn tôi cập nhật tin chiến sự ở Tây Nguyên mà mũi đột phá là Buôn Ma Thuột, phát đi từ Đài Phát thanh Giải Phóng.
Từ "trại" viết văn Nguyễn Du ở Quảng Bá Hà Nội nhà văn Lý Biên Cương gọi dây nói về cho tôi khen "Bảo à! Buôn Ma Thuột, chân chưa qua mà lòng đã tới". Nghe mà biết anh đang nịnh tôi vì tôi trực thay phần việc của anh để anh đi học. Rồi anh kể chuyện nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu có thơ cập nhật chiến thắng ở Tây Nguyên kịp thời nhất, viết thơ, và in trên báo Nhân Dân sớm nhất trước tất cả các nhà thơ. Ông mang thơ đến "trại" viết văn Quảng Bá khoe, hỏi học viên thấy thế nào. Các học viên rũ ra cười. Ông chỉ định một anh, anh ta lưỡng lự rồi cũng phải nói: "Thưa, dưới tầm Xuân Diệu!" Ông cười hỉ hả, nói: "Đúng! Tôi có đưa cho nhà thơ Huy Cận đọc. Anh ấy bảo là trung bình kém. Nhưng tôi đã có thơ. Còn các em ngồi đây thì chưa biết Tây Nguyên ở nơi nao và Buôn Ma Thuột ở chỗ nào khi mà cách mạng đang ào ào xốc tới cần có thơ ngay cổ vũ!" Cả lớp học lặng đi như thấy mình có lỗi. Nghe chuyện Cương kể mà lòng tôi vui. Có lẽ vì thế mà Cương nói tôi "Chân chưa qua mà lòng đã tới!"
Buôn Ma Thuột là thành phố lớn nhất vùng Tây Nguyên, giờ là trung tâm du lịch của Đăk Lăk. Với hệ thống giao thông thuận tiện, người ta có thể đến các điểm du lịch hấp dẫn trong tỉnh như Khu du lịch sinh thái Buôn Đôn lãng mạn, Buôn Ako Dhong - nơi cư trú thuần người Êđê, Hồ Lăk thơ mộng, Thác Dray Nur huyền thoại, Rừng Quốc gia Yok Đôn, viếng Chùa Khải Đoan, và thăm ngắm Đồn điền Café ngát hương…
[ATTACH=CONFIG]42351[/ATTACH]
Mỗi năm Buôn Ma Thuột đón hơn chục triệu khách đến, là để tham quan khám phá một vùng đất Tây Nguyên với cảnh sắc và khí hậu đặc thù, với lịch sử văn hóa cũng đặc thù của tộc người Êđê và Mơnông. Dakruco Hotels 10 tầng bốn sao là khách sạn lớn nhất ở thành phố Buôn Ma Thuột có giá buồng đôi hạng trung tới 1,4 triệu đồng một ngày đêm mà tôi lưu trú cũng "cháy phòng" vào ngày cuối tuần. Thế thì các chuỗi khách sạn 3 sao, 2 sao, nhà nghỉ nếu không đặt chỗ trước chắc gì thuê nổi.
Người quản lý Dakruco Hotels có lời tư vấn: Hãy đi dọc Ngã Sáu vào buổi tối. Uống café tại một trong các quán đối diện Buôn Ma Thuột Hoa viên, nơi được mệnh danh là "Con đường Café" đấy. Cứ nghe tên quán đã thấy ngất ngây: Café Bâng Khuâng, Café Hoa Đất, Café Lũng Hồng, Café Pơ Lang, Café Uất Kim Hương…Và bắt xe buýt chỉ hết 15 ngàn đồng để tới Buôn Đôn mà thỏa chí leo cầu treo giăng qua suối chảy siết, cưỡi voi lội nước xuyên rừng, thưởng thức văn hóa cồng chiêng nếu là ngày cuối tuần.
Café Trung Nguyên xâm thực đất Hà thành đã làm người Hà Nội đắm say. Nhưng café Trung Nguyên tại đại bản doanh Buôn Ma Thuột còn đắm say hơn. Ngồi nhâm nhi tách café phin trong các ngôi "nhà dài" kiểu Êđê làm toàn bằng gỗ lợp ngói vẩy phong thủy mát lạnh, ngắm nhìn khu vườn café Robuta (vối), Arabica (chè) xanh mướt đang độ đơm hoa trắng muốt, róc rách tiếng nước suối nhân tạo rót vào khe đá trong một không gian nồng ngậy hương café bay. Để đánh giá ý nghĩa của café quan trọng tới mức nào, chủ quán cho vẽ Hoàng đế Napoléon Bonapac đứng rất oai phong phía dưới in câu nói đầy ấn tượng: "Nếu không có café thì chính trị chỉ còn một nửa".
[ATTACH=CONFIG]42349[/ATTACH]
Ông chủ Café Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ là một doanh nhân chịu chơi, cho tìm kiếm sưu tập hơn ngàn hiện vật về phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, ngành nghề truyền thống của người Êđê, trưng bày kín tầng một ngôi "nhà dài" dài tới năm chục mét, liền kề với khu uống café. Nhưng muốn đến phải đi vòng vèo qua chiếc cầu đá, lội một đoạn suối nhỏ, leo vài bậc thềm, đi trong dăm ba đoạn hang động nhân tạo thật nên thơ. Có một em gái trẻ tên Võ Kim Chi trong y phục người Êđê giới thiệu. Nhưng giọng nói lại nhẹ thênh ngọt ngào như giọng Bắc. Hỏi ra cha em người Bắc Ninh, mẹ người Huế. Cả hai đi kinh tế mới ở Gia Rai và sinh em ở đó. Em được tuyển chọn từ một Festival Café diễn ra tại đây cuối năm 2008 qua một khúc hát quan họ. Tôi bật cười mường tượng ra một em gái nhỏ xinh vận áo mớ ba mớ bảy đội nón ba tầm tha thướt hát câu quan họ"Người ơi Người ở đừng về". Và có lẽ nào nhạc sĩ Vũ Thiết đã có cảm xúc từ em gái này mà viết nên ca khúc "Nghe câu Quan họ trên Cao Nguyên" có giai điệu ấm nồng, để rồi được ca sĩ Anh Thơ biểu diễn càng ấm nồng hơn.
Buôn Ma Thuột – tiếng gốc Êđê, nghĩa là "bản" hoặc "làng" của Cha Thuột, xuất phát từ tên gọi "buôn" của Ama Thuột ( Ama là Cha).
Xa xưa, thủ phủ của vùng đất cao nguyên này đặt ở Buôn Đôn. Năm 1890 Bourgeois – một người Pháp thực dân nổi tiếng mưu mẹo đã sớm nhìn thấy tương lai của vùng đất rộng, bằng phẳng lại màu mỡ của Buôn Ma Thuột, đã lập kế hoạch thu phục Khumjunop – một tù trưởng – một vua săn voi nổi tiếng của Buôn Đôn. Rồi y tiếp tục thu phục Tù trưởng Ama Thuột nhằm đặt tiền đề cho việc xây dựng một thủ phủ mới ở nơi đây. Để 14 năm sau, tức năm 1904, thực dân Pháp cho dời thủ phủ từ Buôn Đôn về Buôn Ma Thuột. Ngày mồng 2 – 11 – 1904 Toàn quyền Đông Dương ra ngay nghị định thành lập tỉnh Đăk Lăk, và đặt tỉnh lị tại Buôn Ma Thuột, dưới sự bảo hộ của Khâm sứ Trung Kỳ. Các Công sứ người Pháp, đặc biệt là Sabatier thì muốn duy trì sự biệt lập cho Tây Nguyên. Nhưng do nhu cầu thiết lập cơ cấu chính trị, hành chính xã hội, đòi hỏi sự góp mặt của các công chức, vì thế bên cạnh người Pháp, thì người Êđê, người Kinh đã dần có mặt ngày một đông. Và làng Lạc Giao – làng đầu tiên của người Kinh được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới cho vùng Tây Nguyên. Từ sự phát triển đó, ngày mồng 5 – 6 – 1930 Khâm sứ Trung Kỳ ra tiếp nghị định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng thống nhất đất nước vào năm 1975 Buôn Ma Thuột được xây dựng trở thành một thành phố lớn tiêu biểu cho cả vùng Tây Nguyên mà nay là thành phố của du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế.
[ATTACH=CONFIG]42350[/ATTACH]
Buôn Đôn, thủ phủ cũ của vùng đất cao nguyên này trở thành điểm du lịch đông vui nhất tỉnh Đăk Lăc. Ô tô từ thành phố Buôn Ma Thuột đưa khách du lịch về đỗ chật các bãi, làm cả cái thị trấn đông kịt người trở nên chật chội. Các cửa hàng ăn nghi ngút khói bởi các món thịt nướng, cơm lam. Hai bên đường nhà nhà bày bán hàng lưu niệm làm từ các nguyên liệu gỗ tạc khắc, mây tre đan, thổ cẩm thêu hoặc dệt, sừng trâu ngà voi đồ bạc chế tác cùng các loại thuốc thảo mộc khai thác từ rừng núi cao. Người mua thì mua ít mà người bán thì mời chào nhiều ríu ra ríu rít. Để rồi tất cả kéo nhau đổ xuống khu du lịch sinh thái nằm bên sông Sêrêpok chia nhiều nhánh dòng chảy siết qua các lèn đá còn hoang sơ nhưng ngập tràn thơ mộng. Dưới những vòm tán cây râm mát của loại cây thân mộc mềm mọc ngang đan quấn dầy vào nhau như mắt lưới, là những chiếc cầu treo qua suối làm bằng tre và gỗ mềm mại đung đưa đánh võng, nâng những bước chân của từng tốp từng tốp người chập chững như say qua sông, để mua vé ngồi chờ được cưỡi voi lội nước xuyên rừng. Người quản lý khu có dịch vụ cưỡi voi cho hay, có cả thảy 8 chiếc cầu treo qua sông như thế. 4 chiếc sang và 4 chiếc về một chiều. Nếu cộng lại dài tới 800 mét.
Buôn Đôn tiếng Êđê có nghĩa là Làng Đảo. Sông Sêrêpok hợp lưu từ hai sông Krongno (sông chồng) và Krongne (sông vợ) rồi đổ về sông Mekong. Từ đỉnh Chyjansing nhìn xuống Buôn Đôn thấy rõ có 7 dòng chảy bao quanh buôn. Vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 nước dâng cao Buôn Đôn trở thành một Làng Đảo.
[ATTACH=CONFIG]42348[/ATTACH]
Nghe chuyện săn voi của "Vua săn voi" – Tù trưởng của Buôn Đôn Khumjunop thật công phu ác chiến. Ông ngồi chễm trệ trên lưng một trong 10 con voi chiến, vận y phục dành riêng cho chức tù trưởng màu chàm quyết có nhiều đường viền và tua rua màu huyết dụ. Ngực áo có khâu đính những mảnh thổ cẩm súng sính những viên đá ngọc màu, biểu tượng tượng trưng của quyền lực, đầu đội chiếc nón chóp lợp dầy bằng da ngựa thuộc có màu vàng sẫm như màu mật ong, một tay cầm khiên đồng thau, tay kia ôm cây "xà gạc" có hình thù giống cái lưỡi hái của Thần Chết. Chạy trước và sau ông là đoàn vệ binh nai nịt binh khí thợ săn đầy người tiến vào rừng sâu. Gặp đàn voi rừng, ông thổi tù và ra lệnh cho tùy tùng thúc voi chiến xông tới quyết chiến với voi đầu đàn. Cái tài của vua săn voi là nắm bắt được đàn voi rừng, chọn hướng bất ngờ tấn công nhằm thẳng voi đầu đàn tạo thế áp đảo.
Hoảng sợ voi đầu đàn bỏ chạy, nhanh như chớp các chiến binh của ông rượt đuổi nhưng là rượt đuổi voi non, lập tức quăng dây tròng chúng. Bắt voi non là để thuần dưỡng chúng phục vụ công việc của con người. Voi non được nhốt trong các cũi chắc khỏe kẹp sát thân. Bỏ đói vài hôm. Khi tính hoang dã của chúng sa sút, bấy giờ là lúc con người bảo gì nó cũng phải nghe theo. Con nào cứng đầu thì dùng đinh tre già đâm vào hai huyệt ở sống mũi và mang tai. Đau đớn không con nào không bị khuất phục. Thuần dưỡng voi là công việc công phu. Nhưng làm ra những chiếc dây chão tròng voi còn công phu hơn. Dây này được làm từ toàn bộ da của 7 con trâu. Sau khi ngâm tẩy lá thuốc cho sạch, những tấm da được xắt dài và to bằng ngón tay. Phơi 100 cái nắng trời. Dãi 100 cái sương đêm. Rồi mới bện ba vặn thừng dài 50 mét. 100 năm dây da trâu không mục nát, ba thế hệ săn voi vẫn dùng tốt.
Một cặp vợ chồng du khách hỏi anh quản lý khu cưỡi voi, rằng con trai ông dặn đến Buôn Đôn hãy tìm mua cho nó một chiếc nhẫn bạc có luồn sợi lông đuôi voi. Đeo nhẫn này sẽ gặp nhiều may mắn. Anh quản lý khu cưỡi voi cười xác nhận có chuyện ấy. Nhưng giá 300 ngàn đồng một chiếc. Vợ ông du khách lè lưỡi kêu đắt. Xui chồng mua vé cưỡi voi 80 ngàn đồng. Khi voi ra giữa sông Sêrêpok ông hãy với tay về phía sau rứt một chiếc lông ở đuôi nó có hơn không. Đến lần ông du khách tròn xoe mắt, nói, nhỡ nó đau nó hất mình xuống sông đầu đập vào gềnh đá thì toi mạng luôn. Xem ra cách an toàn nhất vẫn là bỏ ra 300 ngàn đồng mua cái nhẫn ấy đang bán đầy ở các cửa hàng lưu niệm. Những người ngồi quanh được một trận cười tớ phớ.
[ATTACH=CONFIG]42345[/ATTACH]
Buôn thứ hai nên đến thăm là buôn Aka Dhong, một buôn lũng đầu nguồn có trên 70 hộ, 400 khẩu thuần người tộc Êđê. Buôn duy trì thuần khiết những căn "nhà dài" làm bằng gỗ lợp ngói vẩy. Xung quanh nhà nào cũng có khuôn viên vườn trồng toàn café, hoa ti gôn và hoa giấy. Không gian sạch sẽ thơm tho. Cứ như cái buôn này sinh ra là để làm du lịch.
Cô gái trẻ tên Huỳnh Mỹ Vân, một cán bộ giảng dạy ở Trường Cao đẳng Du lịch, nhận làm thêm việc hướng dẫn khách để thêm thu nhập, đưa chúng tôi vào thăm một "nhà dài" có bán đồ lưu niệm và rượu cần có biển hiệu Ama Dza Phin. Nơi đây ông bà chủ nhà tiếp đón chúng tôi rất niềm nở và chân tình. Một bên sàn nhà có nhóm mấy cô gái Êđê đang thêu trên những mảnh thổ cẩm, mắt lúng liếng liếc nhìn khách mỉm cười. Một bên nữa là vài chàng trai vui nhắp rượu cần cười nói líu lô. Mỹ Vân giới thiệu bằng tiếng Êđê.
Ông chủ nhà xua tay nói thẳng tiếng Kinh. Thật thoải mái tuy rằng hơi khó nghe. Tôi mon men tới bên mấy cô gái xin chụp ảnh. Các cô cười ré lấy tay che mặt. Mỹ Vân dùng tiếng Êđê nói giúp mới được việc. Xong, tôi ước ao với Mỹ Vân, giá biết được tiếng Êđê thì hay biết mấy. Mỹ Vân cười, kéo tôi ra hiên dưới giàn hoa giấy, luyện cho tôi nói câu: "Ayòng khâp kơ Adei!" Tôi lặp lại 6 lần thì thuộc hẳn. Rồi hỏi: "Nghĩa là gì?" Mỹ Vân cười ròn: "Là anh yêu em!" "Ôi Mỹ Vân! Cô nghĩ tôi trai lơ lắm sao mà dạy câu tỏ tình đó?" Vừa lúc, ông Trưởng buôn Ama Hrin tới. Chủ nhà được giới thiệu có nhà báo về, ông báo cho Trưởng buôn, Trưởng buôn sang chào, mời chúng tôi qua nhà ông chơi ngay bên kia đường. Tôi sững sờ khi Trưởng buôn Ama Hrin nói ông đã 82 tuổi, mà phong độ như người tuổi 65. Khỏe mạnh và nhanh nhẹn, leo bậc thang lên sàn "nhà dài" thoăn thoắt như con sóc. Trưởng buôn nói sõi tiếng Kinh. Nghe ông kể thì cả 70 hộ ở buôn Aka Dhong có yếu tố nước ngoài. Riêng ông có một con trai một con gái ở Mỹ, một con gái ở Canada, và một con gái nữa ở Pháp. Ông sở hữu một khu du lịch sinh thái rộng 12 hec ta, mới xây dựng cơ sở hạ tầng được 1 phần 3. Ông nói chuyện đầu tư cải tạo khu du lịch sinh thái ấy cứ dễ như việc trồng một mảnh vườn nhà. Tôi xin ông cho góp cổ phần. Ông cười ha ha xua tay "Không để người Kinh vào đâu. Ở đây chỉ có người Êđê thôi. Phải giữ đất chứ!"
Ôi! Tôi không có nhiều mưu lược như anh Pháp thực dân Bourgeois hơn 100 năm trức thu phục được cả Tù trưởng Khumjunop và Ama Y Thuột đồng lòng di dời thủ phủ Đăk Lăk từ Buôn Đôn về Buôn Ma Thuột. Tôi liếc lườm Huỳnh Mỹ Vân, trách: "Sao cô không dạy cho tôi câu tỏ tình với ông Trưởng buôn Ama Hrin sẽ bổ ích hơn là câu tỏ tình với gái Êđê? Đại loại là: Cháu yêu Trưởng buôn lắm lắm! Trưởng buôn hãy tin cháu đi!"
Buôn Aka Dhong của Trưởng buôn Ama Hrin nổi tiếng về rượu cần. Trong buôn có nhiều Ama làm rượu. Rượu cần là đặc sản của người Êđê. Nhưng rượu cần của Ama Bi làm ngon nhất. Rượu ngon là nhờ men ngon.
Ở mảnh đất đầy nắng đầy gió đã tồn tại những cụm từ nổi tiếng "Đêm rượu cần", "Say ngất ngây như men rượu cần". Mỹ Vân kéo cần cho tôi nhắp thử ché rượu cần của Ama Bi để cảm nhận cái ngất ngây đầu đời. Có ngất ngây mới hiểu nổi rượu cần của người Êđê. Thói quen lâu đời của người Êđê dùng rượu cần trong các lễ hội và khi tiếp khách quý. Rượu được làm từ nếp cẩm hoặc nếp trắng, đồ thành xôi, phơi nguội, trộn men và ủ kín. Men rượu làm từ củ riềng, rễ cam thảo, củ cây chít, phơi khô giã nhỏ thành bột, nhào với ít nước nhuyện nhão nắm thành nắm to như chiếc bát ăn cơm, đem ủ cho tới khi lên men trắng là được. Ủ rượu là ủ trong ché đựng rượu. Một lớp nguyên liệu một lớp trấu để sau dùng cần hút không tắc. Bịt miệng ché phải bằng lá chuối khô. Ủ càng lâu rượu càng ngon. Có độ nồng cao và vị đậm đà. Rượu ngon có màu vàng đục như mật. Khi rót ra dòng chảy không bị đứt đoạn. Chạm một giọt xoa hai mặt ngón tay thấy dinh dính. Có hương thơm ngây ngất, vị cay nồng xen lẫn vị ngọt rất đặc trưng.
[ATTACH=CONFIG]42346[/ATTACH]
Ama Bi cho hay rượu ngon phải để trong ché quý. Người Êđê có nhiều loại ché khác nhau về màu sắc và kích cỡ. Những chiếc ché Tuk và ché Tang là quý hơn cả, nhất là loại có màu trắng và xanh, thường có từ 3 đến 6 tai. Ché càng to càng quý.
Ama Bi còn nói về cơm lam. Cơm lam của người Êđê cũng là một đặc sản hút hồn du khách. Trong hình dung cảm tính của nhiều người, cơm lam phải là thứ cơm đại loại có màu xanh của lá rừng, có hương thơm của cây rừng…Nhưng nào chỉ có thế. Những ống nứa non thon nhỏ dài dài như tấm mía ở chợ, được nướng xém lớp vỏ ngoài, được người làm cơm lam khéo léo róc đi lớp vỏ cật khét lửa, để lộ ra lớp vỏ giữa trắng trẻo thơm tho. Tước nhẹ từng dải, như người ta bóc chuối chín lớp vỏ giữa đó, là đến phần lõi cơm. Lớp cơm được bao bọc bởi một lớp vỏ lụa mịn màng, mỏng mảnh, có màu trắng ngà – thứ vỏ lụa chỉ có trong ruột ống nứa non - khiến cho cơm lam có một nhan sắc rất đỗi thuần hậu mà ta muốn được nâng niu mãi. Chỉ là một món ăn giản dị của núi rừng gắn với những con suối róc rách chảy đầu nguồn, những nương lúa chín vàng bên sườn đồi, những vạt rừng tre nứa xanh ngút đầu non, và bếp lửa mùa đông của mẹ, mà sao có thể khiến người đi xa khó nguôi quên đến thế. Cơm lam cũng khiến người mới gặp lần đầu bỗng ngỡ ngàng trước một món ăn không gì đơn giản và khiêm tốn hơn, mà ẩn chứa trong đó biết bao nghệ thuật và ý tưởng của hạt gạo vùng cao trong mối giao tình với nước, với lửa và những ống nứa non.
Lúc chia tay, tôi hỏi Trưởng buôn Ama Hrin có dùng toa thuốc của cụ Ama Kong không mà sao ông có sinh lực dồi dào thế. Trưởng buôn Ama Hrin lắc đầu quầy quậy, rồi nói: "Cái Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa sức khỏe là sự đủ đầy về dinh dưỡng và thoải mái về tinh thần à!" Nói rồi ông lại cười ha ha.
Toa thuốc tăng sinh lực của Ama Kong đã nổi tiếng, là mối quan tâm của đấng mày râu trong cả nước. Người ta truyền tụng nhau một giai thoại giống như bài thuốc của Vua Minh Mạng. Lại cũng giống như lời chào mời của các quán thịt rắn làng Lệ Mật về rượu rắn của họ "Ông uống bà vui". Ama Kong năm 83 tuổi, lấy thêm cô vợ thứ tư tuổi 32. Đầu năm cưới cuối năm cô sinh cho ông một bé gái xinh xắn. Ông rất vui nhưng các bà vợ một, hai, ba buồn, vì cô tư bỗng dưng đưa các bà "xuống hạng". Họ hoài nghi. Dân trong buôn hoài nghi. Lẽ nào tuổi 83 lại còn khả năng tuyệt vời ấy? Phương châm tuyên truyền có câu "Cứ nói dối trăm lần sẽ thành sự thật." Chuyện sang tai nhau trong buôn làm chính Ama Kong cũng mất tự tin. Ông lấy một sợi tóc của ông và một của đứa trẻ mật sai người đưa vào Sài Gòn kiểm tra ADN. Nào ngờ ba bà vợ một, hai, ba cũng bí mật làm việc ấy. Lại bất ngờ là cả bốn kết quả cùng cho kết quả giống nhau: "Trùng gen của Ama Kong!" Bấy giờ Ama Kong mới tự tin và tự hào công bố toa thuốc bí truyền từ đời ông ông, bố ông truyền lại. Và ông cho sản xuất toa thuốc bán rộng rãi nhanh chóng trở thành thương hiệu. Hay tin tôi vào Buôn Ma Thuột, mấy ông hàng xóm khẩn khoản nhờ mua giúp.
Tôi mò tới ngôi "nhà dài" của Ama Kong nay là điểm du lịch. Ama Kong đã vào tuổi 103. Phải gọi là cụ. Bà con gái cụ đã ở tuổi già, nhai trầu nhóp nhép tiếp khách không mấy niềm nở. Hỏi câu nào trả lời câu nấy. Uể oải giới thiệu thuốc khô đóng túi và thuốc đã ngâm rượu. Nói giá 180 ngàn đồng một gói nhưng không bán, bảo ra đại lý mà mua. Khẩn khoản mãi bà mới bán. Ai cũng hy vọng mua ở đây mới là chính hiệu nên người nào cũng khuân năm sáu gói. Một người xin bà cho uống thử rượu đã ngâm thuốc. Bà lấy gáo múc cho mỗi người một chén nhỏ. Tôi hỏi bà: "Uống bao lâu thuốc ngấm?" "Ngấm ngay! Thấy ngay!" Một ông tham lam làm ba chén liền. Năm phút. Bảy phút. Tôi hỏi ông ba chén: "Thấy chưa?" Lắc đầu. Hỏi ông một chén cũng lắc đầu. Tôi hai chén cũng… chưa thấy. Tôi xin bà được gặp cụ Ama Kong. Bà chỉ vào gian trong nói cụ đang ngủ. Qua khung cửa ra vào gian trong nơi xa sâu trên giường có lùm lùm một cái gì đó phủ chăn. Có lẽ là cụ. Dưới khung cửa ấy có tấm biển đề "Người ngoài không được vào". Và có một đứa trẻ sáu bảy tuổi đi đi lại lại nơi đó như canh chừng.
Toa thuốc của Ama Kong được sản xuất công nghiệp có nhãn mác nghiêm chỉnh. Túi đựng ngoài cho khách có in hình toàn thân Ama Kong thời trẻ trai tráng kiện mặc bộ y phục màu chàm đen có tấm phủ khố dài tới mắt cá chân. Tóc rẽ ngôi chải mượt như người thuộc hạng danh gia vọng tộc. Một tay cầm tù và thổi, tay kia ôm chiếc xà gạc hình lưỡi hái Thần Chết. Văn tự ghi: "Già làng - Dũng sĩ săn voi số 1 Tây Nguyên – Việt Nam" Dược tính, công dụng, chỉ định liều dùng được ghi bằng bốn thứ chữ: Êđê, Anh, Thái, Trung văn.
[ATTACH=CONFIG]42347[/ATTACH] Ngôi “nhà dài” của Ama Kong
Toa thuốc Ama Kong được các đại lý và quầy hàng bày bán nhan nhản ở những nơi tôi qua. Nhưng mỗi nơi nhãn mác có khác nhau về trình bày. Thắc mắc, Huỳnh Mỹ Vân cười nói: "Toàn gia tộc sản xuất thuốc. Mà Ama Kong có tới bốn vợ, vài chục con và cháu. Cùng là gia truyền mà!"
Hiện nhà cụ Ama Kong còn lưu giữ chiếc chão săn voi làm từ da trâu, kỷ niệm một thời dũng sĩ săn voi số 1 Tây Nguyên. Ở nhà Trưởng buôn Ama Hrin và Bảo tàng Dân tộc thành phố cũng có trưng bày bó chão săn voi như thế, viết lời phụ đề rất trang trọng.
Chiều cuối cùng, cô giáo du lịch Huỳnh Mỹ Vân đưa chúng tôi đến thăm một nơi mà cô nói là sẽ rất hối hận nếu không đến: Thác Dray Nur, thuộc huyện Krông Ana, cách thành phố gần 40 km, xe chạy băng qua các đồn điền café, đồn điền cao su và đào lộn hột. Nơi đây đang trong quá trình thực hiện Dự án xây dựng một khu du lịch sinh thái với kế hoạch 5 năm trên diện tích 105 héc ta mang tên Đặng Lê. Đặng Lê nằm trong Tập đoàn café Trung Nguyên. Ông chủ café Trung Nguyên là người có tầm nhìn xa trông rộng, biến nơi hoang sơ thành nơi sầm uất. Cũng là một Ama.
Anh Nguyễn Xuân Thiện, trưởng dự án cho hay, về thiên nhiên nơi đây có thác Dray Nur với độ cao hơn 20 mét quanh năm đổ nước trắng như bông đẹp tựa trong mơ. Liền kề đó có hai thác nhỏ Dre Nur và Dre Sap mà theo truyền thuyết cho là Thác Vợ và Thác Chồng. Hai cây số sau, các dòng chảy cùng hợp lưu về sông Sêrêpok men Quốc lộ 14 về Buôn Đôn. Truyền thuyết xa xưa đã coi hạnh phúc lứa đôi là thiêng liêng. Sông suối cũng có đôi. Giống như ở sông Chảy Hòa Bình có Thác Bà lại có cả Thác Ông. Du khách tới đây ai chưa tìm thấy "nửa kia" của mình có thể sẽ chạnh lòng.
Chợ trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột cao 5 tầng kinh doanh đa ngành hàng mới hoàn thành xây dựng bắt đầu đưa vào sử dụng nằm bên một đường phố mang tên Nơ Trang Long – một anh hùng của Tây Nguyên, và một bên là đường Y Jut – người có công biên phiên chữ Êđê, cả hai là những Ama. Ông chủ của Đakruco lại chọn mặt trận kiến thiết cơ bản với những chuỗi khách sạn hiện đại, công trình dân dụng và văn hóa. Còn ông chủ của Café Trung Nguyên làm dậy sắc Café cao nguyên, cũng là những Ama.
Những Ama quá khứ xa, những Ama quá khứ gần, những Ama thời hiện tại đang làm nên một Tây Nguyên, một Buôn Ma Thuột đầy ấn tượng.
Theo VTC
|