PDA

View Full Version : Buôn Ma Thuột ngày đầu chiến cuộc


huunghi
26-01-2013, 11:09 AM
Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa sao quên được Ban Mê Thuột và bao kỷ niệm yêu dấu của tuổi ấu thơ trên thành phố nhỏ bé này, mà đặc biệt là Ban Mê Thuột với nỗi kinh hoàng của đêm ngày 9 tháng 3/1975, đêm đen hãi hùng của chiến tranh và lửa đạn.

“Ai chiếm được Ban Mê Thuột, kẻ đó làm chủ chiến trường.” Tôi không còn nhớ ai đã nói câu này, nhưng Ban Mê Thuột quả thật có một vị trí chiến lược vô cùng trọng yếu đối với miền cao nguyên, vì lãnh thổ của tỉnh Darlac, mà Ban Mê Thuột là thị xã, nằm trên Quốc Lộ 14, chạy dài từ phía Nam là tỉnh Quảng Đức, nối tiếp với Vùng 3 Chiến Thuật. Phía Bắc là tỉnh Phú Bổn chạy dài đến Pleiku. Phía Tây là một dãy rừng già tiếp giáp với biên giới của các nước láng giềng (ngã 3 biên giới). Từ khu vực phía tây, một nhánh sông Serepok bắt nguồn từ Cam Bốt chạy xuyên Ban Mê Thuột cắt Quốc Lộ 14 ở phía Nam thị xã 14 km (cầu 14).

44014
Tất cả những điểm đặc biệt của địa hình này đã tạo nên một ưu thế cho chiến tranh du kích. Hơn thế nữa, Đông Bắc thị xã Ban Mê Thuột là Quận Phước An, quận cuối cùng của tỉnh Darlac, mà cũng là gạch nối giữa vùng cao nguyên và miền duyên hải qua cửa ngỏ Khánh Dương, Nha Trang bằng Quốc Lộ 21. Cho nên, nếu nói Ban Mê Thuột là cái rún của vùng cao nguyên qủa thật không phải là quá đáng.

Ban Mê Thuột cũng là cái nôi kinh tế của miền đất đỏ. Nếu nói tới cây thông Đà Lạt, hay trà ở B’lao, thì nhất định phải nói tới cà phê Ban Mê Thuột và những dãy đồn điền cao su hàng chục ngàn mẩu. Rừng là tài nguyên vô cùng quý của quốc gia. Ban Mê Thuột là nơi tàng trữ và sản xuất các loại cây, gổ quý như cẩm lai, cà te, gụ, lim, sên sên, cây dầu, cà chích, bằng lăng… nên đã trở thành trung tâm khai thác lâm sản bậc nhất trên toàn quốc, và đã nuôi sống không biết bao nhiêu ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân thời bấy giờ.

Với bốn quận gồm Lạc Thiện (nằm ở hướng Đông), Phước An (hướng Đông Bắc), Buôn Hô (Bắc) và Ban Mê Thuột là quận châu thành, và dân số toàn tỉnh có khoảng 150 ngàn, mà thị xã Ban Mê Thuột chiếm 60 ngàn, gồm cả Kinh lẫn Thượng. Người Thượng với nhiều sắc dân như Ê Đê, Bana, H’mong… và với 15 trường trung học và tiểu học như Bồ Đề, La San, Hưng Đức, Vinh Sơn, Bán Công (sau này đổi lại thành trường Tỉnh Hạt), Trung Học Tổng Hợp (công lập), Trung Học Nông Lâm Súc, Trung Học Sư Phạm Cao Nguyên… Tám mươi phần trăm dân số sống bằng nghề trồng ngũ cốc và cây kỹ nghệ cà phê, cao su, tiêu, ca cao. Người Thượng theo tập tục Cúng Dàng, người Kinh là tín đồ của các tôn giáo như Phật, Thiên Chúa, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo và cũng như thờ cúng Ông Bà.

Điểm đặc biệt của thị xã này là những thắng cảnh rất nổi tiếng và nên thơ như Vườn Ương, với dãy rừng Trắc Bá chạy dài theo con lộ từ phi trường dân sự Phụng Dực tới cây số 5, “Thung Lũng Tình Yêu,” “Rừng Chim Chích,” Suối Hẹn Hò,” “Đồi Cỏ Vàng,” “Vườn Mộng,” “Thung Lũng Hồng,” “Thác Drayling…” để những chiều nhàn rỗi, các đôi tình nhân đem nhau đến vườn mộng ngắm cỏ úa của mùa thu, hay mỗi Hè về, nhìn hoa Phuợng nở trên khuôn viên trường Tổng Hợp, hoặc là đi thăm khu kỹ nghệ cây số 7 để ngâm mình trong suối đá xanh mà ngắm hoa Bằng Lăng, trắng, đỏ, tím, hồng, nở rộ trên những đồi hoang.

Nhưng tất cả những cảnh vật đó, sinh hoạt đó, đã bị vùi chôn và hủy diệt bằng các trận mưa pháo của đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly, chiến xa T-54, và 3 sư đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa xuân năm Ất Mão, ngày 10 tháng 3/1975. Ban Mê Thuột, hay “Bụi Mù Trời” đã tan tác hết, phần đất bé nhỏ của quê hương yêu dấu tôi yêu.

NHỮNG NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

Có lẽ không phải chỉ riêng tôi, mà hầu hết những người dân của thị xã đã không linh cảm nỗi quê hương thơ mộng này lại rơi vào biển lửa của chiến tranh. Mặc dầu vào mùa Thu năm 1974, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật về nhận chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Tiểu Khu Darlac, ông đã cho thực hiện một dãy chiến hào bao quanh thị xã để phòng xe tăng T-54 của Cộng quân. Tinh thần quyết chiến-đấu và bảo vệ Ban Mê Thuột của từng người lính và các cơ quan đơn vị, từ cấp Xã đến Quận đã rõ rệt và sẵn sàng từ đó.

Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên tục. Cục hành quân Phượng Hoàng của hai đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (Cảnh Sát Quốc Gia) giữa liên xã Thọ Thành và Cư Jút vào sau khu vực phía Nam, cách nhiệm sở của hai đơn vị này khoảng 15 km về hướng Nam Tây-Nam, và 42 km Tây-Nam thị xã vào cuối tháng 2 năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch.

Cuộc hành quân của đơn vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia thuộc xã Cư Ming, Bandon, phía Tây thị xã Ban Mê Thuột chừng 48 km cũng đã cung cấp cho Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột và F đặc biệt về sự di chuyển của quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bandon.

Các tin tình báo của những tình báo viên,TBND, trong Mạng Lưới Tình Báo do Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh trong những tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía tây thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng quân.

Ngày 14 tháng 2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực lượng cộng quân.

Tháng 2/1975, một nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của Cộng quân ra hồi chánh với một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh giới gữa Khánh Dương – Nha Trang và Phước An – Ban Mê Thuột.

Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột), của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù binh Cộng Sản, quân hàm thiếu úy, trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban Mê Thuột.

Nhưng tất cả những tin tức này đều chỉ được ghi nhận. Lực bất tùng tâm, Quân Đoàn 2 với hai sư đoàn gồm Sư Đoàn 22 Bộ Binh (BB) lo trấn giữ các tỉnh miền duyên hải, và Sư Đoàn 23 Bộ Binh 23 trấn thủ các tỉnh cao nguyên với những dãy núi rừng trùng trùng điệp điệp, đã không đủ quân số để chống giữ Ban Mê Thuột với sự ồ ạt tấn công của hàng chục ngàn bộ đội Bắc Việt với đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly và chiến xa T-54 yểm trợ đã vùi chôn Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này trong biển lửa.

Nhưng trong thâm tâm mỗi người dân Ban Mê Thuột, hình ảnh những vị anh hùng của Tiểu khu Darlac, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Sư Đoàn 23 Bộ Binh mãi mãi là những thần linh bất tử, đặc biệt là Trung Đoàn 53 Bộ Binh trấn giữ phi trường Phụng Dực, đã anh dũng chiến đấu và bảo vệ những phần đất Ban Mê Thuột trong suốt 7 ngày đêm dưới chiến thuật biển người và mưa đạn của kẻ thù cho đến phút lâm chung. Xin cám ơn đấng tố cao đã cho chúng tôi những người con trung hiếu lưỡng toàn này.

NHỮNG TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU

Để chuẩn bị cho cuộc tấn công Ban Mê Thuột, Cộng quân đã mở 3 mặt trận lớn, cắt đứt mọi liên lạc và tiếp vận với Ban Mê Thuột. Mặt trận đầu tiên là đánh chiếm quận Thuận Mẩn, thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm trên Quốc Lộ 14, giáp ranh với quận Buôn Hô, tỉnh Darlac, cách quận lỵ Buôn Hô 45 km về phía Bắc vào ngày 4 tháng 3/1975.
Đêm ngày 6 tháng 3/1975, Cộng quân mở mặt trận tại khu vực quận Khánh Dương, Nha Trang, nằm trên Quốc Lộ 21, giáp ranh quận Phước An tỉnh Darlac, cách thị xã Ban Mê Thuột 75 km về phía Đông Bắc.

Đêm ngày 8 tháng 3/1975, Cộng quân tấn công quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, nằm trên Quốc Lộ 14,cách thị xã Ban Mê Thuột 60 km về phía Nam. Đến 9 giờ 30 ngày Chủ Nhật, 9 tháng 3/1975, tin Cộng quân tràn ngập Chi Khu Đức Lập chính thức nhận được qua Trung Tâm Hành Quân Tiểu khu Darlac.

Như vậy, thị xã Ban Mê Thuột đã hòan toàn bị cô lập. Phía Nam Ban Mê Thuột là quận Đức Lập đã bị Cộng quân chiếm đóng. Phía Bắc liên lạc với Phú Bổn và Pleiku qua Quốc Lộ 14, đã bị Cộng quân cắt tại quận Thuận Mẩn. Đông Bắc là Quốc Lộ 21 nối với miền duyên hải qua cửa ngỏ Nha Trang đã bị Cộng quân trấn giữ bằng mặt trận Khánh Dương.

TÌNH HÌNH BAN MÊ THUỘT, CHỦ NHẬT 9 THÁNG 3/1975

Với những tin nhận được, tình hình Ban Mê Thuột quả thật có biến động. Những gia đình giàu có, những người có thể, đều tìm cách ra khỏi Ban Mê Thuột để về Nha Trang hay Saigon. Một vé máy bay đi Saigon lên đến 50 ngàn đồng thời bấy giờ, nhưng cũng không còn chỗ. Đi Nha Trang 20 ngàn, nhưng cũng không cách nào đặt được vé.
Trưa ngày 9 tháng 3/1975, một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập tại Tòa Hành Chánh, do Đại Tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng chủ trì, gồm các ty sở trưởng, đơn vị trưởng và ban ngành chuyên môn trực thuộc tiểu khu. Lệnh báo động đỏ được ban hành cùng với lệnh cấm trại một trăm phần trăm các đơn vị.

Một đặc lệnh truyền tin được chuyển đến các đơn vị, đặc biệt là trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, với những chỉ dẫn cần thiết kèm theo đặc lệnh này, mà những nhân viên thừa hành không thể được phép mở, ngọai trừ khi có lệnh của đơn vị trưởng trực tiếp. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn thị xã, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau. Một số gia đình có thân nhân ở ngoại ô thị xã như cây số 5, đã di tản gia đình ra khỏi thị xã tối ngày 9 tháng 3/1975.

Nhưng định mệnh đã an bài, không phải vì triều đại của chúng ta thiếu nhân lực hay bất tài, cũng không phải vì chúng ta tất trách, chưa làm hết bổn phận của mình, mà ngược lại, chúng ta đã tận sức, đặc biệt là những người lính, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia.

Thực sự xã hội miền Nam từ giữa thập niên 1960 đã có những biến chuyển lớn trong sinh hoạt chính trị gây ảnh hưởng sâu rộng cho nền trị an xã hội, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Một số các tổ chức đã chỉ biết yêu cầu và đòi hỏi mà quên đi những nguyên tắc căn bản của một thực tế xã hội mà mọi sinh hoạt còn ở mức khởi đầu. Một người làm chính trị giỏi thì cả nước yên, cả nước làm chính trị thì xã hội loạn. Khuynh hướng đòi tự do dân chủ được lồng vào các cuộc bạo hành, xuống đường phản đối chính phủ ở vào những giai đoạn không hợp thời, không đúng lúc, của một số tổ chức, đã thực sự đe dọa nền an ninh quốc gia, và trở thành những hành động khủng bố tính mạng của tổ quốc.

Người ta nhân danh tự do, để làm chính trị, nói chính trị, mà không thấu triệt đạo đức và nguyên lý chính trị căn bản. Người ta đòi tự do, hô hào tự do mà xã hội còn ở mức căn bản, nên vô tình hay hữu ý, những kẻ đó đã tiếp tay, hoặc tạo cho kẻ thù cơ hội lũng đoạn và khuynh đảo các cơ cấu, tổ chức chính quyền, thao túng trật tự xã hội dưới nhiều hình thức và chiêu bài. Trong khi đó, ở ngoài chiến trường, những người lính của chúng ta còn giành nhau từng tấc đất với kẻ thù, và sinh mạng những người dân ở vùng chiến tranh, hoặc từng phần lảnh thỗ của miền Nam chỉ là ngàn cân treo sợi tóc.

Mặt khác, chúng ta lại không may gặp phải một đồng minh khác biệt với nền đạo đức cổ truyền, không đặt nặng lòng nhân, không xử chữ nghĩa, chúng ta như một con cờ trong ván cờ chính trị toàn cầu của đồng minh anh em, trong khi nền Cộng Hòa của chúng ta vừa qua giai đoạn phôi thai, đang ở chặng đường phát triển. Nền công nghiệp nặng còn khiếm khuyết, kỹ nghệ quốc phòng chưa mở mang, nền kinh tế quốc dân tuy có ổn định, nhưng cán cân cung cầu chưa đồng đều, mậu dịch chưa hoàn toàn cân đối.

Dầu rằng nền Cộng Hòa của chúng ta đã có được một cơ cấu chính quyền có tổ chức và hoàn bị, dựa trên Hiến Pháp, nhưng được toàn thế giới công nhận, có ứng cử và bầu cử tự do từ cấp xã, quận, tỉnh đến trung ương. Một Học viện Quốc gia hành chánh để đào tạo các chuyên viên hành chánh điều hoà hệ thống này. Một Quốc Hội lưỡng viện, một Giám Sát Viện để đàn hạch việc làm của Tổng Thống. Một Tối Cao Pháp Viện để kiểm sóat hệ thống tòa án là ngành Tư Pháp của chúng ta.

Chúng ta lại có một hệ thống tài chánh, ngân hàng hết sức ổn định và tiên tiến, không thua gì các quốc gia mở mang. Hệ thống giáo dục của chúng ta thưc sự đã hoàn hảo, hàng năm, các viện đại học Sàigòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức, đã đào tạo và cung cấp không biết bao nhiêu chuyên viên và nhân tài phục vụ xã hội. Ngành y tế của chúng ta phải nói là tân tiến, với một đội ngũ bác sĩ đầy nhiệt huyết và lương tâm.

Quân đội của chúng ta cũng được đào tạo và huấn luyện với những kỹ thuật tiên tiến, tinh vi, và hữu hiệu. Chúng ta có hai trường sĩ quan: Trường Võ Bị Đà Lạt, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, một trường Hạ Sĩ Quan là trường Đồng đế ở Nha Trang, nhiều trung tâm huấn luyện và những trường chuyên môn như Công Binh, Pháo Binh, Trường Sĩ Quan Không Quân và Hải Quân, trường Quân Nhu, Quân Cụ, vân vân và vân vân…

Và ngành Cảnh Sát Quốc Gia, chúng ta có một Học Viện Cảnh Sát ở Thủ Đức, huấn luyện và đào tạo các sĩ quan ưu tú, để hành xử luật pháp thật công minh, Trung Tâm Huấn Luyện Dốc Dừa, Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến, và nhiều Trung tâm huấn luyện khác đã đào tạo các chiến sĩ cảnh sát xuất sắc để hoàn thành nhiệm vụ TRỪ BẠO, AN DÂN, CÔNG MINH, LIÊM CHÍNH.

Về mặt kinh tế quốc dân, các ngành sản xuất đang trên đà phát triển, các nhà máy giấy, xi măng, xưởng dệt, lắp ráp nông cơ, xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, xà phòng… các ngành xuất, nhập, khẩu tăng trưởng cực mạnh, số lượng gạo, cà phê xuất cảng đứng hang nhất-nhì trong khu vực Đông Nam Á. Các mặt hàng tiêu dùng như vải, sợi… tràn ngập trên thị trường, không cần đến nhập cảng . Hai mươi sáu triệu dân miền Nam thực sự đủ ăn, đủ mặc, được học hành và chăm sóc chu đáo.

Xã hội chúng ta thực sự đã tổ chức hoàn bị, dựa trên căn bản của luật pháp, bình đẳng và tự do. Người ta tha hồ phê bình tổng thống và các vị lãnh đạo ở mọi cấp bậc của quốc gia. Quyền tự do cư trú, tự do đi lại, tự do lập hội, tự do ngôn luận, báo chí, và các đảng phái tuyệt đối được tôn trọng. Và đó là tất cả những gì mà nền Cộng Hòa của chúng ta đã làm được và đang cố gắng phát triển và thăng tiến.

Tuy nhiên, một điều mà chúng ta phải thừa nhận, đó là quốc gia của chúng ta còn là một nước phát triển, chúng ta chưa có kỹ nghệ sản xuất vũ khí. Quân đội của chúng ta, trong ngành tình báo kỹ thuật, trang bị còn rất hạn chế, vì phải nhờ vã ở đồng minh.

Chúng ta không có xe tăng M-48 bắn bằng tia hồng ngọai tuyến, hay điều khiển bằng máy vi tính, vũ khí chống chiến xa T-54 là súng M-72, dài gần một mét, nặng gần 12 pound. Mổi khẩu M-72 chỉ xử dụng đúng một lần, bắn xong một phát là vất bỏ khẩu súng. Thử hỏi mỗi người lính khi đi hành quân phải mang đầy quân trang quân dụng thì còn mang theo được bao nhiêu khẩu M-72. Bom không đủ dùng, bom không có ngòi nổ. Cấp số đạn cho vũ khí cá nhân thực sự hạn chế, phương tiện truyền thông liên lạc còn rất thô sơ, nhiên liệu hoàn toàn bị lệ thuộc, mà đặc biệt là quân số của chúng ta chưa đủ để phân phối vì bị ràng buộc bởi luật động viên.

Và cái phải đến đã đến, chúng ta đã không ngăn chận được biển người của kẻ địch tràn ngập thành phố này, Ban Mê Thuột đã mất, mất hết cả ước mơ, hoài bảo và tương lai.

PHỐI TRÍ VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

Lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại thị xã Ban Mê Thuột lúc bấy giờ không quá một ngàn người, gồm hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết mà chưa được trả về như chỉ thị của Tổng Thống lúc kinh lý Pleiku trong dịp Tết Ất Mảo 1975). Ban Mê Thuột thực sự chỉ là một thành phố hoang không lực lượng bảo vệ, nói theo một nghĩa nào đó. Do vậy, vấn đề phân nhiệm tuy có kế hoạch chu tường nhưng chỉ là một màng nhện.

Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các phòng cùng các ban trực thuộc, chịu trách nhiệm phòng thủ phía Nam thị xã. Hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 chịu trách nhiệm phía Tây, khu vực nặng nề nhất. Kho đạn (trại Mai hắc Đế) bảo vệ một mặt phía Tây-Nam cùng với Trung Tâm Yểm trợ tiếp vận (đại đội hành-chánh tài-chánh, tức là Ban Lương Bổng). Phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh đảm trách. Xa hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột sẽ phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ. Mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến. Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau:

Hai chốt cảnh sát đặt tại Trường Trung Học Tỉnh Hạt và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc. Cuối đường Tự Do, Bến Xe Cây Số 3, được giao cho Cục Cảnh Sát Quốc Gia Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến. Cửa ngỏ phía Nam có Cục Cảnh Sát Quốc Gia Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiệm. Cửa Tây thị xã giao cho Cục Cảnh Sát Quốc Gia thị xã Cục Lạc chịu trách nhiệm. Các cao ốc trong toàn thị xã và các khách sạn, như khách sạn Anh Đào, Hồng Kông, đều được Cảnh Sát Quốc Gia đóng chốt.

Các đơn vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có trung đội pháo binh 105 ly. Nhưng tiếc thay, pháo binh của Cộng quân lại là loại 130 ly, và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn toàn cách biệt.

Lực lượng Cộng quân có một trung đoàn địa phương là Trung Đoàn 25, ba sư đoàn quân chính quy Bắc việt gồm các Sư Đoàn 320 (tiền danh là Nông Trường 3 Sao Vàng), Sư Đoàn 316, và Sư Đoàn F10. Thêm vào đó, Cộng quân có hàng trăm chiến xa T-54, các đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, BKZ 82 (bích-kích pháo không-giật dùng để phá hủy các công sự phòng thủ).

Với những đơn vị tham chiến có mặt này, quân số của Cộng quân đã lên đến hằng chục lần hơn so với quân số của Việt Nam Cộng Hòa. Và nếu cộng thêm đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ xã Lạc Giao, quân số của ta cũng không vượt quá 2,000 người. Nhưng thực sự thì bảy ngày sau Cộng quân mới hoàn toàn làm chủ Ban Mê Thuột. Đó chính là nhờ lòng dũng cảm, tinh thần quyết chiến-đấu của từng người lính, và cấp chỉ huy của mỗi đơn vị trong suốt những giờ đầu chiến cuộc.

MỞ ĐẦU TRẬN ĐÁNH

Từ 1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3/1975, các chốt điểm Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.

Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19.

44019
Tiếng rít của hỏa tiển và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ đó cứ liên tục như những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên các màn bạc. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực mạnh. Và màng nhĩ của con người chỉ còn ghi nhận tiếng “o o” mà không còn nghe được một âm thanh nào khác.

Thành phố đã như con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà xây thô sơ quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự của ta cho đến 6 giờ sáng.

Bốn giờ sáng cùng ngày, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế với chiến thuật biển người.

Sáu giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của đại tá tỉnh trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tỉnh.

Sáu giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi trường L19 bị Cộng quân tràn ngập.

Bảy giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá mạnh. Cũng lúc này, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thànhphố.

Tám giờ 30 cùng ngày, Kho đạn Mai Hắc Đế thất thủ. Viên đại úy chỉ huy trưởng bị trọng thương.

Chín giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng quân chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xã. Một mũi từ cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc ) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ HuyTiểu Khu 800 mét. Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê B, đồi Trung Học La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khố. Một mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã đã bị Cộng quân tấn chiếm.

Khu phố Nguyễn Trãi Nguyễn Tri Phương, dân chúng bồng bế nhau chạy về chùa Khải Đoan và Trường Bồ Đề dưới mưa đạn AK và đại bác của kẻ thù. Tiếng khóc của trẻ con, tiếng kêu mẹ, gọi chồng hòa lẩn tiếng đạn rít nghe thê lương hải hùng không nỗi nào tả xiết. Dãy phố Quang Trung, Lý thường Kiệt, từ nhà hàng Hoàng Vinh đến tiệm may Hoàng Yến, đối diện Ngân hàng Đại Á bốc cháy dữ dội. Khu phố Hai Bà Trưng, Quang Trung, từ khách sạn Hồng Kông chạy dài đến Ama Trang Long đã thành một biển lửa. Quả thật cuộc sống của thành phố này đang bị hủy diệt. Những cụm lửa cuộn theo tàn hòa trong khói đục tiếp tục bay cao để đốt cháy nốt những khu phố lân cận.

MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC

Từ 9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng quân từ hướng bắc và hướng Tây bắc đã hoàn toàn tràn ngập trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất. Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi, nhưng không tràn qua được khu vườn hoang của Bác Sĩ Tôn Thất Niệm, nằm sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.

Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một chiếc T-54 của Cộng quân bị bắn cháy. Dù với chiến thuật biển người và với BKZ 82 ly cùng đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng vào hệ thống công sự phòng thủ của tiểu khu, Cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự phòng thủ này. Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.

Cộng quân lui về cố thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và đại bác130 ly cùng hỏa tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.

Mười một giờ 20, một chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.

Mười một giờ 45, hai chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến ngã Ba Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của Cộng quân từ ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân bắn cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo khu phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.

Cũng giờ này, khu chợ Ban Mê Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một biển lửa. Dãy phố bên kia đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu phố nằm trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của Bác Sĩ Tôn Thất Hối đã bị sập.

Cho đến giờ này, 11 giờ 45 ngày 10 tháng 3/1975, các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, và lực lượng của Cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc, tức là khu cư xá sĩ quan và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, tức là từ Bưu Điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Những trận đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng thủ.

Một giờ 15 trưa ngày 10 tháng 3/1975, Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy.

Mười bốn giờ 20 ngày thứ Hai, 10 tháng 3/1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của Cộng quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có được một đơn vị bạn nào tiếp cứu.

Sáu mươi ngàn dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn phận cho đến hết sức mình. Xin gởi tấm chân tình sâu xa nhất của chúng tôi đến Trung Tá Vĩnh Hy, người trực tiếp chỉ huy mặt trận, với những trận tấn công và đánh xáp lá cà cùng lực lượng biển người của quân thù, và để đến giờ phút cuối đành di tản Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.

Xin anh linh của những chiến sĩ đã sống hùng thác thiêng, phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình trên những chặng đường di tản. Các vị mãi mãi là những anh hùng và thần linh của thành phố này.

MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ

Những Trận Đánh Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
Trong kế hoạch phòng thủ thị xã Ban Mê Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh.

Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ và phản công cho đơn vị hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại Đội Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá chỉ huy trưởng đặc trách hành quân.

Mười một giờ trưa ngày 9 tháng 3/1975, sau khi dự phiên họp tại Tiểu Khu, có sự tham dự của Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, ông trở về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Tỉnh cùng với vị phụ tá hành quân triệu tập một phiên họp tham mưu với các cấp chỉ huy, nhắc lại lệnh cấm trại một trăm phần trâm và lệnh báo động đỏ cho toàn thể các đơn vị trực thuộc. Ông cũng cho lệnh di tản gia đình nhân viên ra khỏi thị xã để sẳn sàng chiến đấu. Đồng thời Đại Tá Vĩnh chuyển đến các Cục Cảnh Sát Quốc Gia Xã Đặc Lệnh Truyền Tin, Khóa KCD và ra lệnh được phép tiêu hủy hồ sơ đơn vị nếu cần thiết.

Phân công trách nhiệm phòng thủ Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát mới cho Thiếu Tá Chỉ Huy Phó và sĩ quan phụ tá hành quân, với Đại Đội 206 Cảnh Sát Dã Chiến. Ty cảnh Sát cũ, nằm ở khu vực sân vận động trên đường Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, gồm 2 phòng Truyền Tin và Kỷ Thuật do chỉ huy trưởng đảm trách.

Mười hai giờ 30 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac nhận được tin một đơn vị của Cộng quân đã tiến vào khu vực Buôn Ea H’Neh, cách thị xã Ban Mê Thuột khoảng 6 km về phía Tây. Viên chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đã tức thời trình Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Đại Tá Nguyễn Trọng Luật. Đồng thời ông cũng báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh sát Quốc Gia Khu 2 (Nha Trang ) và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Quân Khu 2. Nhưng tiếc thay, Bộ Chỉ Huy Khu và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã không có biện pháp ngăn chận.

Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.

Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.

Sáu giờ 20, một đoạn vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thủng. Lực lượng Cộng quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ phía sau. Tổn thất về nhân sự nặng nề nhất trong mặt trận Ban Mê Thuột, phải kể hàng đầu là đại đội Thám Sát của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac. Những hy sinh mất mát đó người dân thị xã thực sự không bao giờ quên lãng.

Sau khi tràn ngập các chốt điểm tiền tiêu, 9 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng Cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía Bắc phi truờng L19 và bến xe Cây Số 3 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac,nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành phố.

Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng quân. Các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho địch tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ.

Một con đường an toàn duy nhất trong lúc này, chính là con đường Tự Do, chạy dài từ bến xe Cây Số 3, dọc theo sườn Đông của phi trường L19 đến tư dinh của vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Không phải chỉ những chiến sĩ thuộc các binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có kỷ thuật và kinh nghiệm chiến đấu, mà thực sự những người Cảnh Sát Quốc Gia thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, trong mặt trận Ban Mê Thuột, đã thể hiện hoàn toàn lòng trách nhiệm và tinh thần Trừ Bạo An Dân.

Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ này, mà một mặt phía Đông thị xã Ban Mê Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị phải rút lui vào phút cuối.

Xin mượn những giòng nước mắt, và nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn để bày tỏ sự cảm phục trước lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm và anh dũng chiến đấu của những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã cương quyết bảo vệ thành phố nhỏ bé này cho đến phút lâm chung. Xin anh linh của những vị đả khuất phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình giữ được lòng trung kiên với tổ quốc và tinh thần vì dân trừ bạo bất diệt.

Mười lăm giờ 40 ngày thứ hai, 10 tháng 3/1975, với áp lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp tục phản công quân thù.

Mười sáu giờ ngày thứ Hai, 10 tháng 3/1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn được trấn giữ.

Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt, đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lổ loang những dấu đạn cày. Bên cạnh những đóng tro tàn, từng nhóm người co ro sợ hãi cúi mặt không dám khóc. Những trẻ em mất cha, lạc mẹ kêu van đã khàn tiếng.



Rải rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là một bãi tha ma, không gọn gàn sạch sẽ như nghĩa trang người chết, mà là hổn độn của một thế giới nửa sống, nửa chết. Vợ ôm xác chồng không dám khóc, mẹ nhìn thây con giá lạnh không dám đem về. Người ta vẫn sợ một Mậu Thân thứ hai, năm 1968, ở Huế. Bóng dáng của Cộng quân như tử thần dến chiêu hồn kẻ sống đe dọa mọi người.

Sáu giờ chiều thứ Hai, ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng Sản lại chia thành từng toán, đi lục soát khắp cùng thị xã, và thanh lọc dân chúng ở các tụ điểm của người chạy nạn như chùa Khải đoan, Trường Bồ đề, Trường Tàu ở đường Y Jút, và bắt đi những thanh niên nam, nữ.

Người dân thị xã không còn điểm tựa, không còn chỗ kêu cứu. Người ta theo lệnh của những khẩu AK chỉa vào họ như một cái máy, không cảm xúc, nỗi kinh hoàng đã cướp đi mọi cảm giác của con người. Và cũng chính giờ phút này, người ta hiểu thế nào là đường ranh của cõi chết.

Nhưng niềm tin và lòng hy vọng của muôn người lại trở về trong bản năng và tâm linh của họ. vì trên bầu trời thị xã, hai chiếc L-19 đang lượn vòng trên đầu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, mà từ sáng, nỗi hãi hùng đã làm người ta quên mất. Những tia khói đục như một màng luới từ dưới đất tung lên, tạo thành những chiếc dù tí hon bao quanh hai chiếc L-19, Đó là đạn phòng không 37 ly và 12 ly 7 của Cộng quân, nhưng không một chiếc L-19 nào bị trúng đạn.

Phật Xá Lợi vẫn còn tại thế, Chúa Giê Su về trời vẫn lập phép Thánh Thể để nuôi người thế gian, Bộ Tư Lệnh Sư Đòan 23 Bộ Binh vẫn còn đó, nghĩa là linh hồn và niềm tin của người dân thị xã vẫn chưa bị hủy diệt. Mọi người như thầm xin “Những Con Ó của Sư Đoàn 23 ơi, xin hãy vì 60 ngàn dân và thành phố thân yêu này mà chiến đấu.”

BAN MÊ THUỘT GIÂY PHÚT LÂM CHUNG

Cuộc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975 của 3 sư đoàn Bộ Binh Bắc Việt cùng với chiến xa T-54 và các loại trọng pháo cho đến lúc này đã hầu như lắng đọng trong nội vi thị xã (16 giờ 10 ngày 10 tháng 3/1975). Và các cứ điểm quân sự quan trọng đã bị Cộng quân tràn ngập.
Sáu giờ 20 ngày 10 tháng 3/1975, phi trường trực thăng và L19, đài kiểm báo, đơn vị phòng thủ phi trường, nằm ở phía Bắc thị xã, cuối đường Phan chu Trinh và Tự Do, đã bị tê liệt.

Tám giờ 20 cùng ngày, kho đạn Mai Hắc Đế, phía nam Tây-Nam thị xã bị thất thủ

Mười một giờ 50, hậu cứ Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp ở cửa Tây thị xã di tản.

Mười hai giờ trưa, Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, nằm trên đường Quang Trung Tôn thất Thuyết, cạnh chợ Ban Mê Thuột tan hàng.

Mười bốn giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3/1975 Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac thất thủ.

Mười lăm giờ 40 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac rút khỏi thị xã.

Trong gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh,và Nhân Dân Tự Vệ toàn thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển người, chiến xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một đơn vị bạn nào tiép cứu.

Và giữa những giờ phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm nhặp trung tâm thành phố. Tin tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ đều vui mừng nắm chắc phần quyết định chiến trường.

Nhưng cho đến một giờ chiều, tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình của vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.

Tin này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được gởi đến.

Nhưng 1 giờ 15 ngày 10 tháng 3/1975, trung tâm hành quân của Tiểu Khu, đầu não của mọi hệ thống chỉ huy và liên lạc cho chiến trường Ban Mê Thuột bị đại bác của Cộng quân pháo sập, tiểu khu thất thủ, rồi Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh di tản và thị xã Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân.

Một số các tổ trinh sát, các đơn vị an ninh vòng đai thị xã mất liên lạc với đơn vị. Những sĩ quan chỉ huy và binh sĩ của các đơn vị này đã lẫn vào các đoàn người chạy loạn, hoặc tự tái lập các tổ chiến đấu, lẫn tránh vào các khu rẫy cà phê mặt Bắc, phía sau Tòa Giám Mục.

Trong nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, trận chiến được coi như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn, gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người.

ĐÊM KINH HOÀNG

Từ 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh lính.

http://www.youtube.com/watch?v=33n_iABcGDk
Giải phóng Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975


Khắp cùng các ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt hết các loại sách báo, giắo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.

Một lần nữa, ngọn lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp, và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phố. Những hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh của chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm hồn mỗi dân đinh của toàn thành phố. Ở cuối đường Hoàng Diệu, Nguyễn Trãi, Khách sạn Darlac, ba nghiệp chủ khai thác lâm sản đã bị đánh đập đến tàn khuyết, một số viên chức chính phũ, binh sĩ và cảnh sát bị hành hung rất dã man, nhưng các nạn nhân đều không có thuốc men cứu chữa và không được phép cứu chữa.

Sự ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của cấp lảnh đạo chính là tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có một trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền Bắc, nên bộ đội Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm những ”đài địch,” và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ ăng ten TV là những ”đài địch ” ấy đã có khắp trong toàn thị xã. Thảm thương thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này.

Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt, mà lại tuôn ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.

Nhưng bộ đội Cộng Sản đã không cần biết tới, mà còn tiếp tay, kích động, cùng với đám côn đồ nằm vùng, truy lùng và tận diệt những kẻ mà chúng thù hằn, hoặc chúng cho là có nợ máu với cách mạng. Và cũng đêm nay, lần đầu tiên, người dân thành phố nhìn được bộ mặt thực của bộ đội Cộng Sản.

Cái quan trọng đối với kẻ chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả những gì họ có thể vơ vét: Kho dự trữ lương thực trung ương, trực thuộc Phủ Thủ Tướng nằm trên đường Tự Do, cạnh F Đặc Biệt, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện, Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo, cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố.

Suốt đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xã.

Trong khi đó, những sĩ quan, binh lính và viên chức chính phủ bị kẹt lại trong thành phố, đang tìm cách lẩn trốn ra khỏi thị xã, hoặc ẩn núp trên các nóc nhà, giữa mái tôn và trần nhà, để tránh bị bắt hoặc bị trả thù cá nhân. Cái lạnh về đêm của mùa Xuân cao nguyên, hoặc cái nóng kinh người của những ngày nắng tháng 3 ở thành phố Ban Mê Thuột đã mấy ai hiểu được, ngoại trừ những người lẫn trốn Cộng quân và bọn côn đồ nằm vùng. Tuy nhiên, nỗi đau đớn của thể xác trong lúc này đã không làm con người cảm nhận được bằng sự kinh hoàng và tuyệt vọng đang dìm tâm trí họ xuống đáy vực mênh mông.

Đêm nay, ở một góc vòng đai thị xã, tôi nhìn rõ đêm đen phủ xuống bãi tro tàn và gạch vụn của khu phố, ngửi mùi khét của tử thi và gia súc trong trận lửa sáng nay mà nghe lòng mình như tan nát, rã rời. Tôi ngậm ngùi thương xót cho những gì vừa mất, những cuộc đời bình dị của từng con người và mỗi gia đình trên thành phố này, mà thời gian chỉ là tối Chủ Nhật hôm qua, mồng 9 tháng 3, và chỉ chưa tròn 24 tiếng đồng hồ mà tất cả đã không còn nữa. Tất cả đã trở thành kỷ niệm, như một giấc mơ, đầy hãi hùng và kinh đãm.

Trong nỗi xúc động không cùng đó, tôi chợt nhớ về quảng đời đã qua, những tháng ngày ấu thơ trên thàng phố ”Buồn Muôn Thuở” mà những học trò đệ-thất vẫn quen gọi tên Ban Mê Thuột một thời, giờ đây tôi càng nghe tên gọi đó êm ái lạ thường.

Ban Mê Thuột, quê hương ấu thơ ngày đó, cũng như phố thị êm đềm bình dị của hôm qua đã là một bãi gạch vụn. Nhưng những kỷ niệm yêu dấu của Ban Mê Thuột mãi mãi không phai mờ trong tâm hồn của riêng tôi và của 60 ngàn dân đinh sinh trưởng ở nơi này.

Tôi không hiểu được tại sao trong lúc này tôi lại nhớ về ngày cũ, chuỗi thời gian êm ái của thời niên thiếu trên khuôn viên trường Tổng Hợp. Những ngày tháng rong chơi trong các buôn, làng của khu vực Xã Cữ Êbư có đầy hoa Bằng Lăng màu tím nở rộ mỗi Hè về trên những đồi hoang. Con đường vào Buôn Dung xuyên qua khu suối Bà Hoàng có cỏ vàng và hoa Lan dại. Khu thác Drayling với bờ cỏ đá bám đầy trên những gốc cây dầu già như những cành liễu rũ xuống của mùa Thu Đà Lạt. Và đẹp hơn, là những cành Phong Lan như những chiếc nơ thắt trên bím tóc thiếu nử thuở nào.

Không hiểu tôi đã thương con đường Hai Bà Trưng hay khu cư xá Lam Sơn êm ả buổi chiều về, hoặc là dãy phố Y Jút Quang Trung, nơi thị tứ có Ciné Lo Do và Nguyễn Huệ mà hằng đêm không hề thiếu ánh đèn màu. Khói thơm của tô bún bò rau chuối, hay mùi cay của khói thuốc Lào trong dãy phố chợ dọc Ama Trang Long. Hoặc là cái hun hút của con đường Phan Chu Trinh chạy dài từ Toà Giám Mục đến nhà thờ cha Ngoạn, nối liền với đại lộ Thống Nhất cho tới Buôn Alê A, cửa Nam của thành phố. Hoặc giả là nỗi nhọc nhằn của người bộ hành từ khu đồi dóc Châu Sơn theo ngỏ Hàm Nghi về khu Chợ Nhỏ ở đường Hoàng Diệu nối dài vào mỗi sáng Chủ Nhật. Tất cả đã hiện về trong trí óc tôi như một khúc phim thơ mộng của thời vàng son vừa mất hôm qua.

Tôi vẫn nhớ rõ chiều hôm qua, mồng 9 tháng 3/1975, từng dãy xe nhà đậu nối đuôi nhau trên con đường Quang Trung, cạnh phòng mạch Nha Sĩ Ba, và một góc của đường Quang Trung Hai Bà Trưng, bên cạnh khách sạn Tường Hiệp đến khách sạn Hồng Kông, để chờ ăn một tô hủ tíu Nam Vang của Phú Lâm, và món canh cải chua nấu đầu cá của nhà hàng Hoàng Vinh, đối diện với Ngân Hàng Đại Á. Và cũng chiều hôm qua, tôi và Thạnh còn lang thang trên con đường này, vừa muốn ghé vào tiệm kem Chi Cao, mà cũng muốn ăn một chén Thạch Chè của Tân Ka, nhưng rồi cuối cùng đã vào Blanc de Neige ở Lý Thường Kiệt.

Không phải tôi chỉ nhớ có bấy nhiêu, và nếu chỉ bấy nhiêu thôi, thật chưa đủ để nói về Ban Mê Thuột của tôi, vì danh lam thắng cảnh và cái thơ mộng của thành phố này còn chất đầy trong tâm trí mỗi con người. Từ cái sầm uất của một thành phố kỷ nghệ, Cây Số 7, khu khai thác và chế biến lâm sản, phía Nam thị xã 7 km. Ban Mê Thuột, ”Kinh đô Cẩm Lai và Cà Phê” mà những doanh gia khai thác lâm sản đã đặt tên. Những dãy đồn điền cà phê và cao su rộng hàng chục ngàn mẫu, cho đến những khu giải trí ở ngoại ô, như Vườn Thực Nghiệm, Hồ Trung Tâm… Và trong thành phố, những nơi ăn uống thành danh như Tân Cao Nguyên ở đường Hoàng Diệu, nhà hàng Vĩnh Thuận ở cuối Quang Trung, Cà Phê Thiên Hương ở Lý Thường Kiệt, Vui Sống ở Phan Chu Trinh, Mây Hồng ở khu trường Tổng Hợp… Rồi những dẫy phố xá tấp nập người qua lại như Phúc An, Dân Thiên Đường, Minh Sơn, Trúc Lâm, Rồng Vàng, Thanh Thế… Vân vân và vân vân…

Nhưng tất cả những thơ mộng đó, giờ đây đã bị hủy diệt. Mồ hôi và nước mắt của bao người đã không ngừng đổ ra trong suốt bao nhiêu triều đại để xây dựng nên Ban Mê Thuột với kỳ vọng của họ và con cháu họ mai sau, giờ đây chỉ còn một đóng tro tàn, mà hương khói gần như cũng nhạt nhòa tan đi trong một vài giây phút nữa. Ban Mê Thuột thực sự đã mất rồi, nhưng trong tâm trí những người còn lại, Ban Mê Thuột mãi mãi là máu thịt của châu thân mình.

BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG

Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đóc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép râu và dấu xích chiến xa. Khu xóm nghèo của một ngoại ô tỉnh nhỏ càng tàn tạ tẻ lạnh hơn lúc nào. Nhìn về khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm.

44020
Cái lặng lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đợt tấn công đầu tiên của Cộng quân vào hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nghĩa là lực lượng phòng thủ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.

Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa chọc thủng được phòng tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn công.

Và chính trong hòan cảnh này, tôi mới hiểu rõ tinh thần Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm của những chiến sĩ Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Những con ó vùng Cao nguyên đã làm cỏ Sư Đoàn 320 Sao Vàng của Cộng quân vùng Dakto, Tân cảnh, Bến Het một thời nào, giờ đây, những con ó đó vẫn vẫy cánh tung hoành giữa rừng quân địch không một chút e sợ.

Năm giờ 55 sáng ngày 11 tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, buổi sáng tháng Ba ở vùng cao nguyên thường có sương mù che phủ, nhưng hôm nay, sương mù đã được thay bằng bụi khói, và không khí trong lành của những sáng mùa Xuân năm xưa đã bay mất để nhường chổ cho mùi khét của thuốc súng.

Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự. Tư dinh này là một biệt thự khá kiên cố, nửa phần tường phía dưới được xây bằng đá, và hệ thống công sự cũng là những lô cốt đá. Nhờ vậy trung đội phòng vệ tư dinh đã không di tản theo Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Mặt khác, tư dinh này tương đối gần hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh hơn Tiểu Khu. Vả lại, với một phạm vi nhỏ, trung đội phòng vệ dễ dàng bố trí hỏa lực hơn ở một vòng đai rộng lớn như Tiểu Khu. Đo đó, trung đội trưởng là Trung Úy Hoành đã cương quyết không di tản. Sự hiện diện của đơn vị này đã trở thành một chướng ngại và nghi điểm trong chiến thuật đối với lực lượng Cộng quân trong lúc này.

Sáu giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh Ban Mê Thuột, người ta nhìn rỏ những chiếc T-54 của Cộng quân, và lực lượng bộ binh đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang dàn hàng ngang tiến sát và hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.

Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng. Nhưng chỉ là một trung đội Địa Phương Quân, đơn vị phòng thủ tư dinh làm sao có thể chống trả được với lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.

Tám giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy trung đội trưởng bị trọng thương. Trong máy PRC-25, người ta nghe được tiếng kêu cứu rồi xin lệnh di tản của Trung Úy Hoành, vị sĩ quan Địa Phương Quân vừa ngoài 30 tuổi, nhưng lòng can đảm và kinh nghiệm chiến trường của ông đã vượt xa quá tuổi đời. Ông đúng là một sĩ quan ưu tú của quân đội.

Tư dinh tỉnh trưởng đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của quân thù.

NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH

Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng ban chuyên môn, trong đó có một đại đội là đơn vị tổng hành dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung Đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai tiểu đoàn ở Ban Mê Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.

Lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh hiển hách không phải vì những chiến công hay lòng dũng cảm của các vị tư lệnh sư đoàn từ thời Đại Tá Võ Văn Cảnh, Trương Quang Ân để lại, mà chính là những chiến thắng vẻ vang, oanh liệt mà sư đoàn đã mang về cho quân lực, từ những chiến dịch Bình Tây 1 và 2… Những trận đánh kinh thiên lẫy lừng, làm vang dội các địa danh chưa có người biết tới, như Dakto, Bến Het, Tân Cảnh. Lịch sử vẻ vang của một đơn vị quân lực kiêu hùng không dễ tự nhiên mà có, nhưng hôm nay, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lần đầu tiên trong lịch sử đơn vị, và trong quân sử của một quân đội kiêu hùng đang đi vào ngỏ rẽ.

Cho đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị quân lực còn có mặt tại thị xã Ban Mê Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của họ. Và đặc biệt là Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc, một đơn vị mà các đơn vị chủ lực quân Bắc Việt không bao giờ dám đụng đầu trên chiến trường Cao Nguyên trong suốt nhiều năm qua, từ các mặt trận vùng Tây Bắc Kontum, PleiKu, Bến Het… cho đến chiến dịch càn quét Cục R, cơ quan đầu não tổng chỉ huy các lực lượng của Cộng quân tại miền Nam, đặt ngoài lảnh thỗ quốc gia.

Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố thủ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.

Điểm đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền sát của liên đoàn đã đột nhập thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại không được lệnh ở lại làm điểm tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu thị xã sau này. Thực sự, nếu Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân có mặt tại thị xã, thì nhất định Ban Mê Thuột đã không thất thủ mà còn đánh tan được 3 sư đoàn quân chủ lực Bắc Việt, và bẻ gãy toàn bộ mọi mưu đồ của Cộng quân.

Từ 6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội Cộng quân dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận chiến với quân thù. Nhìn lên khung trời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bây giờ chỉ còn thấy được những cuộn khói dày đặc mịt mù. Điều đáng tiếc là mấy chiếc thiết vận xa M-113 còn lại của Sư Đoàn 23 trong lúc này lại lại không thấy hoạt động.

Mười giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.

Mười giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống vô cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và tuyệt vọng mênh mong.

MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH

Thị xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về hướng Đông Bắc vẫn cố thủ phi trường và cương quyết chống lại lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.

Cùng lúc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân đã không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân càng tập trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.

Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá Ân. Biết rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn Nhảy Dù đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau. Do vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch để chống lại kẻ địch, và phải nhất dịnh bắn trúng mục tiêu.

Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những đã đánh tan nhiều đợt tấn công của Cộng quân, mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự tổn thất nặng nề nhất của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40, B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường Phụng Dực.

Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh, và trung đội Pháo Binh 105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lượng Cộng quân nhiều gấp bội, có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Ban Mê Thuột đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng 3/1975, đã loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 15 tháng 3/1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.

Ngày 16 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng đành phải ra lệnh rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân. Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa miền Nam.

44021
Với lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê Thuột, nếu thị xã Ban Mê Thuột được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có quân số nhiều gấp ngàn lần đi nữa trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn là một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.

Suốt đêm nay, tôi vẫn mơ màng tự hỏi tại sao Ban Mê Thuột có thể thất thủ dễ dàng và nhanh chóng như vậy? Chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh của Trung Đoàn 53, đã cầm cự với lực lượng Cộng quân hơn suốt 6 ngày đêm.

Qua tin tức các hoạt động của địch được ghi nhận ở những ngày đầu chiến cuộc, và đặc biệt là trong các buổi họp tham mưu, Đại Tá Luật đã nhiều lần nhắc nhở các đơn vị về những hoạt động của Cộng quân, những đơn vị chủ lực quân Bắc Việt đã ghi nhận có mặt quanh vòng đai lãnh thổ, hoặc nghi ngờ đang di chuyển về lảnh thổ Darlac. Và điểm đặc biệt là Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật của Tiểu Khu, một đơn vị mới thành lập đã được đặt trong tình trạng báo động.

Tất cả những sự kiện đó, chứng minh rằng, các giới chức thẩm quyền ở địa phương đều biết trước, Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công, nhưng tại sao Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh lại không được trả về Ban Mê Thuột? Tại sao Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân lại bị mất đi cơ hội xâm nhập thị xã để gải cứu Ban Mê Thuột? Những câu hỏi này, ai có trách nhiệm trả lời, và đến bao giờ mới trả lời được.

MẶT TRẬN PHÍA TÂY BẮC THỊ XÃ VÀ TRẠI ĐỊNH CƯ CHÂU SƠN

Sau khi hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã lúc 10giờ 38 phút sáng ngày 11 tháng 3/1975), Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân. Một số binh sĩ thuộc Tiểu Khu, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp, đơn vị hành chánh tiếp vận… đã thất lạc đơn vị và chạy vào xã Châu sơn, cách thị xã 3 km về hướng Tây Tây-Bắc.

Xã Châu Sơn là tên của một trại định cư có khoảng 5,000 người, từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Geneve năm 1954, được cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập vào khoảng năm 1956, cùng với các trại định cư khác trong toàn lãnh thổ tỉnh Darlac.

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nhận định Ban Mê Thuột có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, không những có thể kiểm soát toàn miền cao nguyên mà còn là giao điểm nối liền cao nguyên với duyên hải, đồng thời từ Ban Mê Thuột còn có thể kiểm soát được vùng Tam Biên Việt Nam, Lào, và Cam Bốt. Vì vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thiết lập một vòng đai an toàn bảo vệ cho thị xã Ban Mê Thuột bằng một hệ thống gồm các trại định cư sau đây:

Trại định cư Châu Sơn ở mặt Tây tây Bắc thị xã Ban Mê Thuột 3 km. Phía Nam dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 5 km là trại Chi Lăng, với dân số khoảng 3,000 người, và xa hơn là Thọ Thành. Phía Đông-Nam cách thị xã 3 km có trại định cư Trần Hưng Đạo gần 2,000 người. Phía Đông khoảng 9 km có Hòa Bình, là quận lỵ của quận Ban Mê Thuột. Cũng về mặt Đông, cách Ban Mê Thuột 15 km, có trại định cư Trung Hòa với dân số 5,000 người. Xa hơn, doc theo Tỉnh Lộ số 5, đường đi Quận Lạc Thiện, có hai trại Kim Châu, Kim Phát, với dân số khoảng 6,000. Phía Bắc Ban Mê Thuột, dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 32 km, có 3 trại định cư, chiếm tỉ lệ dân số người Kinh cao nhất trong toàn tỉnh, hơn 10 ngàn người, đó là các trại định cư Hà Lan A và Hà Lan B, Vĩnh Phước, thuộc Quận Buôn Hô, đã nổi tiếng trong trận đánh đầu Xuân năm 1972 với hai trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong suốt 10 ngày đêm mà chỉ với 7 trung đội Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ Xã.

Thị xã Ban Mê Thuột mất, xã Châu Sơn tự họ quyết định số phận của mình, cưong quyết chống lại Cộng Sản, theo tinh thần của cuc khởi nghĩa Quỳnh Lưu, Nghệ An giữa thập niên 1950 và 1960 khi người dân nổi lên chống lại xe tăng và bộ đội Cộng Sản Bắc Việt năm xưa.

Tập hợp lại những binh sĩ tản lạc chạy vào xã, Ban Chỉ Huy Liên Trung Đội Nghĩa Quân đã hô hào đồng bào đào chiến hào dọc theo hàng rào ấp chiến lược, lập tổ tam tam, 3 người một, yểm trợ lẫn nhau, để chống lại quân Cộng sản. Phụ lão và thiếu niên lo phần tiếp tế cơm ăn, nước uống và cứu thương. Thanh niên nam nữ túc trực ở giao thông hào phòng thủ. Suốt 11 ngày đêm, lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ và toàn dân xã Châu Sơn đã đánh trả không ngừng với lực lượng Cộng quân.

Cuối cùng Cộng quân phải dùng chiến xa T-54 dàn hàng ngang ủi sập hệ thống giao thông hào và hàng rào phòng thủ. Nhiều trung đội trưởng và liên trung đội trưởng Nghĩa Quân bị thương và bị bắt. Xã Châu Sơn đầu hàng. Riêng liên trung đội trưởng nghĩa quân Nguyễn Văn Tiến bị xử án chung thân. Sau hơn 20 năm những người dân xã Châu Sơn một lần nữa, lại bị nô thuộc dưới chế độ Cộng Sản. Nhưng tinh thần chống Cộng và gương anh dũng chiến đấu của họ nhất định mãi mãi lưu truyền cho thế hệ mai sau.

QUẬN PHƯỚC AN: CỨ ĐIỂM CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CUỐI CÙNG

Ban Mê Thuột thất thủ, quận hành chánh và các chi khu di tản về quận Phước An để thành lập một tuyến phòng thủ chiến lược nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột. Chi khu và Quận Hành Chánh Phước An nằm trên một ngọn đồi trọc phía đông bắc thị xã Ban Mê Thuột 42 km, trên Quốc Lộ 21, giáp ranh với quận Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà, Nha Trang là giao điểm giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang, hay là trục nối giữa vùng cao nguyên với miền duyên hải trung phần.

Chín mươi phần trăm dân số Phước An là ngưòi thượng sống rãi rác trong các buôn làng. Trước năm 1960, hầu hết người Thượng ở quân này đều sống bằng nghề làm rẫy, trồng cây ngũ cốc, như bắp và lúa. Nhưng từ sau năm 1960, những di dân từ các miền đến lập nghiệp ở vùng này, đã khám phá ra vùng đất màu mỡ của Phước An rất thích hợp để trồng các loại cây kỹ nghệ như cà phê, cao su, tiêu, ca cao, và từ đó, những dãy đồn điền cà phê mọc lên như nấm nằm dọc hai bên Quốc Lộ 21, từ cây số 5 cách thị xã Ban Mê Thuột về hướng Đông-Bắc cho đến cây số 42 Quốc Lộ 21 và chạy sâu vào hàng chục cây số, đã làm cho Phước An trở nên một vùng trù phú bậc nhất của tỉnh Darlac.

Ngoài cà phê, Phước an còn là khu vực lâm sản quan trọng. Cây Gõ (Cà te) là mối lợi lớn nhất mà các nhà lâm sản thời bấy giờ hằng mơ ước. Quận Phước An có một trường trung học công lập, và hầu như mỗi buôn làng đều có một trường tiểu học cộng đồng, nên dân trí và sinh hoạt của quận này rất cao.

Từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, Bộ Chỉ Huy Tiẻu Khu Darlac, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, các đơn vị đồn trú tại thị xã, các quận hành chánh và chi khu của các quận đều di tản về Phước An để lập một tuyến phòng thủ và chuẩn bị tái chiếm Ban Mê Thuột.

Bốn giờ 40 chiều ngày 13 tháng 3/1975, hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 được đổ xuống quận Phước An, Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn 2 được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, lo phối trí lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột.

Từ 13 tháng 3/1975 đến 16 tháng 3/1975, phòng tuyến Phước An được thành lập với lực lượng của ba chi khu và hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 trong một khí thế hết sức thuận lợi. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột được coi là hoàn tất ở giai đoạn đầu, chỉ còn đợi lệnh và chờ phối hợp với lực lượng tổng trừ bị của Bộ Tổng tham Mưu tăng viện.

Nhưng cho đến ngày 17 tháng 3/1975, lực lượng tổng trừ bị vẫn chưa được gởi đến. Trong khi đó, bộ binh và chiến xa của Cộng quân đã từ thị xã Ban Mê Thuột đổ về tấn công ráo riết phòng tuyến Phước An không một phút nào ngừng. Chiều ngày 17 tháng 3/1975, phòng tuyến Phước An bị Cộng quân chọc thủng, cứ điểm chiến lược cuối cùng của Ban Mê Thuột bị tan rã.

Ban Mê Thuột, tỉnh Darlac gồm bốn quận hành chánh và bốn chi khu cùng với 150 ngàn dân rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Tỉnh Darlac, một trong 42 tỉnh của Việt Nam Cộng Hoà bị xóa tên trên bản đồ hành chánh của nền Cộng Hòa từ ngày hôm nay.

Tôi lịm chết giữa điệu buồn chất ngất
Thả hồn xuôi theo kỷ niệm xa mờ
Phút vị vong thắp lại nén hương thừa
Mà tưởng nhớ một thời xưa đã sống

Nguyễn Ðịnh

phuochiep_corporation
26-01-2013, 11:09 AM
Ngày 1-3-1975

-"Thiếu Uý Đức đâu ?" Tôi vừa bước vào doanh trại Trung Đội CSDC quận Buôn Hộ, DARLAC vừa hỏi vợ Thiếu Uý Đức đang ngồi cho con bú trong phòng .

-"Anh ấy dẫn trung đội vô rừng tìm thằng Ngạn bị Việt Cộng bắt hôm qua rồi . Đại Uý ơi , em giữ không được, em nói là đợi Đại Uý xuống nhưng anh ấy cú đi".

Tôi thở dài, ngồi bịch xuống ghế, buồn và bực ."Lên Chi Khu hỏi xem hành quân ở đâu mới được!" Tôi nghĩ và bảo tài xế cùng hai cận vệ lái xe đưa tôi lên chi khu "Cách đường cái 6 cây số sâu trong rừng" . Trưởng ban 3 Chi Khu Buôn Hô cho tôi biết nhu thế . Không còn cách nào khác hơn, tôi cùng Quỳ tài xế và Khương, Tiến hai cận vệ cũng là trưởng ban 1, ban 2 DĐ 206CSDC đi kiếm chỗ ăn cơm . Lúc ấy là 1 giờ trưa, trời bắt đầu cơn mưa nặng hạt của vùng Tây Nguyên, Khí hậu còn phảng phất gió bấc của ngày Tết . Tôi đang cầm ly bia vội buông xuống vỡ tan: thằng Hiên, tiểu đội trưởng chùm "pông sô" từ đầu đến chân đứng ở cửa nhìn tôi; linh tính của một người đã đi hành quân nhiều lần báo cho biết có điềm không lành .

-"Trình Đại Uý, Thiếu Uý Đức, Thượng Sĩ Mầu bị thương nặng, hai nhân viên tử thương!"

Hiên nói cộc lốc và ngừng lại . Tôi đứng lên nhìn nó trừng trừng gằn từng tiếng:"Anh nói rõ tôi nghe".

-Thưa Đại Uý, Trung Đội bị phục kích chỉ cách 10 mét, không kịp phản ứng nên bị thiệt hại, địch bắn như mưa . Em cũng trình luôn là mình đụng với Chính Quy !

-"Anh nói Trung Đội CSDC Buôn Hô đụng với Chính Quy hả ? Anh chỉ báo cáo láo . Quân anh đánh dở thì chịu dở, còn nói là đụng Chính Quy".

Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng tiểu khu Darlac quạt tôi sau khi tôi thuyết trình về kết quả ghi nhận được liên quan đến tình hình địch tại Buôn Hô, một quận phía Bắc Ban Mê Thuột gồm 9 xã trong đó có một xã Kinh là Hà Lan ABC .

-"Đại Tá muốn nghĩ sao thì nghĩ, tôi chỉ có nhiệm vụ tường trình"

Ngồi uống bia với Thưông Sĩ Quỳ, tài xế của tôi, nhìn ly bia có cục đá trong suốt, nghe tiếng đá cục đập vào nhau kêu lách cách mỗi lúc cầm lên uống một hớp và đặt xuống bàn, tôi lại nhớ đến Thiêu Uý Đức . Nghĩ cũng buồn , mình đã phải điều 2 Trung Đội Nghĩa Quân thuộc Buôn Hô, một Đại Đội Thám Sát Đặc Biệt tỉnh do Đại Uý Y Jie B Ya chỉ huy, 3 Trung Đội CSDC lên đồi tại một vùng chi khu Buôn Hô chỉ để mong cứu Thiếu Uý Đức và Thượng Sĩ Mầu, tụi nó bảo là còn sống chưa chêt mà, lên lúc 6 giờ chiều, Việt Cộng pháo cho một chập phải lui xuống . Cũng tại thằng Lâm chỉ sai đồi, tao mới phải lui, may không có đứa nào chết thảm . Đêm về phải xin Đại Bàng (Trung Tá Trần Quang Vĩnh, chỉ huy trưởng Cảnh Sát Darlac) thêm 2 trung đội CSDC, một đại đội Địa Phương Quân .

Mới mở mắt ra ở quận lỵ, đã có người báo "Việt Cộng mời Đại Uý Tuấn lên lấy 4 xác cảnh sát".

-"Chết bỏ!" Đó là câu bùa của tôi mỗi khi chuẩn bị đi đánh Việt Cộng . " Tao chấp nhận đổi thêm 10 thằng nữa để lấy xác Thiếu Uý Đức và ba thằng con chứ không để kên kên nó ăn thịt". Nói với lính như thế để tụi nó khỏi run . Tôi biết là tí nữa sẽ căng vì địch đang đợi tôi và quân lên .

Sau khi họp với Trung Uý Lại DĐP/CSDC , Đại Uý Y Jie B Ya CHT/Thám Sát, hai trung đội trưởng Nghĩa Quân, tôi quyết định đánh vòng, dùng pháo binh của chi khu Buôn Hô yểm trợ và mở một đường cho Việt Cộng chay.Bịt chặt nó, thì hao quân mà lâu nữa .

-"Đại Bàng Tango phải không ? Thiếu Uý Hồng đây, em là pháo đội trưởng của TD/Pháo SĐ23 tăng cường tại Buôn Hô đây . Trời ơi! tưởng ai, Đại Bàng thi... líp "

Tiếng Hồng e é trong ống loa PRC 25. Tôi cười mỉm và nói :"Dành cho tôi bao nhiêu quả? 100 nhé, OK ?"

Lên từ 8 giờ sáng, vòng ngang và bọc vào . Hai trung đội Nghĩa Quân làm đe và trừ bị. Tôi dẫn CSDC và TSĐB (PRU) và một ĐĐ/ĐPQ vào . Pháo đánh và đập liên tục ngay mục tiêu, thế mà mãi tới 4 giờ chiều mới thấy chúng nó . " Đức ơi sao mày nặng thế ? Có linh thiêng thì nhẹ bớt lại cho lính khiêng"

Bốn thằng nằm 4 chỗ, giầy thì "anh hai" lột hết, đồng hồ cũng mất tiêu luôn . Thương quá vì chưa bao giờ thua cộng sản . Tôi chuyên môn cho lính đi phục kích Việt cộng mà bây giờ để chết lính . " Đức ơi, mày ngu quá, Trương Phi chết vì muốn cứu Kinh Châu trả thù cho Quan Công, lính mà không thông binh pháp làm sao ăn được tụi nó . Bây giờ vợ con mày ai nuôi đây! Thôi tao uống cho mầy một chai nữa, tao về ngủ đây . Mày có nghe thấy không ? Đại Tá bảo tao báo cáo láo, ổng nói tình hình Darlac trăm phần trăm ngon lành khi không lại nói có...Chính Quy !

Ngày 9-3-1975

9 giờ sáng tôi và Trung Tá Vĩnh Chỉ Huy trưởng CSDC Darlac ra phi trường L.19 đón Tướng Phú, Tướng Tư Lệnh vùng ỊI . Ra đến nơi đã thấy Đại Tá Luật, Trung Tá Thành, Tiểu Khu Phó, các trưởng phòng thuộc tiểu khu có mặt . Tướng Phú xuống phi cơ, tôi thấy ông có vẻ gầy chứ không to cao và béo như Tướng Toàn .

Lại lục tục nối đuôi nhau chạy về trung tâm Hành Chánh quân tiểu khu họp .

-"Tôi là trung ương của vùng II là cái rốn , nêu nó đánh anh, tôi cho quân cứu chứ nếu tôi chuyển Su Đoàn 23 bộ binh về đây, nó đánh Pleiku, làm sao anh có phương tiện chuyển quân lên cứu tôi . Tôi quyết định giữ Sư Đoàn 23 lại Pleiku"

Tướng Phú đã phát biểu nhu vậy sau khi nghe Đại Tá Luật trình bầy rằng địch kéo quân về phía đường mòn Hồ Chí Minh khoảng 200 Molotova, nghi ngờ tụ quân 20 cây số Bắc Xã Quảng Nhiêu, Đại Tá Luật xin Tướng Phú đưa một hoặc hai trung đoàn thuộc SD 23 về Ban Mê Thuột vì hiện chỉ có 9 trung đội Nghiã Quân, một nửa đội Trinh Sát, 20 Lôi Hổ thuộc chiến đoàn 3 Xung Kích, một trung đội CSDC, một tiểu đoàn 224 DPQ để giữ thị xã Ban Mê Thuột .

11 giờ, tôi và Trung Tá Vĩnh về BCH/CSDC Darlac tập họp các cấp chỉ huy:"Các anh nên đưa vợ con về Saigon để dễ dàng chiến đấu . Việt Cộng sắp đánh thị xã, có thể là ngày mốt 11 tháng 3. Đêm nay Đại Uý Tuấn chỉ huy ty mới về cho báo động".

Đưa vợ con đi đâu được!

Ở Air Viet Nam nguời đông như kiến, tôi bảo vợ tôi ngồi xe đợi và vào trong hỏi Nguyệt :"Anh Hội đâu", "không thấy", Nguyệt đáp . Thế là anh Hội cũng trốn rồi vì ở cái thành phố Buồn Muôn Thuở này ai mà không quen nhau.

Về đến nhà, vợ tôi hí hửng vì không phải về Đà Lạt với mẹ . Con tôi thì cũng vỗ tay, lấy cái bê rê đội lên đầu, đeo kính của tôi và giơ tay "Chào Đại Uý"

12 giở 30, tôi được Y Hoc Eban báo cho biết địch đã về đến Ea Hneh, vợ nó đi rẫy gặp Việt Cộng đang giăng giây điện thoại . Phone cho Đại Tá Luật biết gấp và xin trấn núi Châu Sơn làm thế ỷ dốc . Ăn cơm trưa xong, chạy xe vội qua ty CSDC ở đường Tự Do kiểm soát và phổ biến cho toàn thể nhân viên, tôi mệt nhoài vội vào phòng ngủ đánh một giấc.

-"Thưa Đại Uý, Đại Tá tỉnh trưởng đến", thằng truyền tin báo tôi biết .

-"Anh cho tôi xem qua hệ thống phòng thủ một chút" Đại Tá Luật cùng đoàn tuỳ tùng đi xem quanh trại giống như đi thanh tra . Tôi đi theo và hướng dẫn cách phòng thủ. "Tôi báo cho anh biết, doanh trại CSQG tôi sẽ dùng làm địa điểm thứ hai, nếu Tiểu Khu mất, anh nhớ nhé . Còn Thiếu Tá Trọng(Quận trưởng BMT)đêm nay điều đại đội ĐPQ cơ động của quận lên đóng trên đồi Châu Sơn , Tiểu Khu chỉ còn Tiểu Đoàn 224 thì đã phải trấn tại mặt Nam đồi La San, một đại đội tại tiểu khu, và một tại vườn ông Tôn Thất Niệm" .

Quay sang Thiếu Tá Song, Tiểu đoàn trưởng Pháo Binh, Đại Tá Luật tiếp :"Bắt đầu 8 giờ tối nay anh cho gà con mổ khoảng 20 bắc Châu Sơn nhé . Địch đã xuất hiện rồi".

8 giờ tối, lùa nốt miếng cơm cuối cùng, tôi đứng lên mặc áo . "Ăn dessert đã anh" Vợ tôi nói. "Bố đi hả bố?" Thằng Cuky con tôi mới hơn hai tuổi, nhưng nó không bao giờ đòi đi theo tôi khi nó thấy tôi mặc đồ rằn ri và đeo súng cả . Tôi cúi xuống hôn con, hôn vợ "Anh đi qua ty, anh dặn em lại là nếu có gì, em, bố và con chạy ra nhà ông bà Chí Thành nhé, mai anh về" Chẳng bao giờ có ngày mai cả, vì từ ngày đó đến nay tôi không còn thấy nàng và con nữa!!!

-"Oành ! Oành !" Tôi bật dậy, Khương ngủ cạnh tôi lắp bắp "Nó đánh, Đại Uý". Tôi bảo Tiểu Ban Đại Đội: "Báo động và đi kiểm soát, địch pháo".

Quả pháo đầu tiên vào phi trường L19 lúc 3 giờ 20 sáng, 10 tháng 3-75, cách tôi khoảng 200 mét. Ra ngoài tôi thấy thành phố nhu rực lửa, không phải vì cháy mà vì địch pháo quá nhiều. Lính tráng nằm hết ở hố cá nhân. Hà! Thế mà tốt, nhờ hỏi tân binh Phước Long nên tôi đã thực hiện mỗi người một hố éch nhỏ xíu. Cho mày pháo đến mai.

5 giờ sáng, tôi dùng PRC 25 liên lạc với thằng PRU trấn phía Bắc L19. Quyền , chỉ huy phó báo cáo hai cánh quân ở phía Bắc mà nó tung ra ngoài từ đêm qua theo lệnh tôi đã phải lui vào, đụng mạnh quá chịu không nổi, 30 thằng còn có 6 thằng chạy vô, bây giờ nó trấn hai hầm. Tôi cho Quyền biết là đang xin Tiểu Khu điều ĐĐ1/224 do Đại Uý Hải chỉ huy vào phi trường L19 bắt tay với nó, đừng lo. Ngay lúc đó tôi liên lạc được với Hải, Hải cười trong máy và hỏi tôi ở đâu để nó bắt tay. "Tao ở Bóng Chim Hồng, thằng sắp bắt tay mày là thằng con tao, Tư Tuởng, Sơn Tây, Tư Tưởng (Thám Sát Tỉnh) mày làm cho ngon nghe Hải".

Mới ngừng mấy phút châm điếu thuốc trong hầm, cầm máy liên lạc lại với thằng 224 thì nó câm. Đổi qua giải toả cũng câm luôn. "Lê Lai" với thằng Quyền PRU thì nó nói, giọng nhẹ chút xíu và nghe yếu xìu: "Chưa thấy, Đại Bàng, tụi Vịt Con đã vô em rồi, nó đang đốt phá ầm ầm". Hỏi tình hình của nó Quyền cho biết , nó còn 12 con, 6 bị thương, 6 lành, hiện đang thủ hai hầm vì địch tràn vô L19 rồi. Tôi "lê lai" với Trung Tá Vĩnh xin lệnh:"Cho nó tự ý hành động". Tôi lập lại lệnh của ông Vĩnh cho Quyền.

44028Nguyễn Ngọc Tuấn

ĐĐT/CSDC Kiêm Chỉ Huy Phó Cảnh Sát
Tỉnh DARLAC đặc Trách Hành Quân


6 giờ sáng, đang liên lạc với các toán thì được Cuộc CSQG xã Lan Giao(thị xã) báo cáo : "Có địch xuất hiện trong phố, từng toán 5, 10 tên, mặc đồ lính, chân không, bảng tên trắng". Cầm cái máy FM5 liên lạc với cao tốc 01 đến 10, tất cả đều câm hết. Đang cầu nhầu với thằng lính truyền tin về vụ máy móc dởm quá thì tôi giật mình khi nghe mấy tiếng AK ngay cổng Đại Đội 206. Nhìn qua cửa hầm, tôi thấy thằng Khoái CSDC trung đội Buôn Hô đang rớt từ hàng rào. Một tên nữa (Thiếu Uý Tâm) nằm trước cổng. Thằng Hùng vội nhẩy xuống hố nhưng hình như không kịp nữa.

Tôi bảo Trung Uý Lai cho hai quân ra trám chỗ. Thằng Tiến chạy vô " Thưa Đại Uý, việt cộng ở nhà Hướng Đạo bắn ra" "Tao biết rồi, để nó đó tính sau, để tao lo xong cái thằng PRU đã." Tôi cầu nhầu và tiếp tục gọi thằng Hải 224, Im lặng! Hỏng rồi!Địch mà chiếm L19 là thành phố mất. Tôi gọi Tiểu Khu báo cáo và xin hỏi thêm về thằng Hải. Tiểu Khu nói nó cũng không thây Hái đâu cả. Tôi vội xin gà cồ gáy vào L19 để chận địch. Gà mình lại mổ tới tấp vào L19. Ngay lúc đó 3 chiếc trực thăng đầy lính vọt lên không ngang đầu tôi. Tụi Vịt Con bắn theo đỏ trời. Thoát được 2 cái, 1 cái rơi ngay đồi phía sau.

-"Alô Đại Bàng xin Tiểu Khu xin Nha Trang yểm trộ phi tuần đánh bom đừng để mất L19" Tôi gọi Trung Tá Vĩnh. Ông Vĩnh nói:"Yoa yên tâm, tôi sắp qua gặp Đại Tá đây, còn vợ con toa và gia đình moa đã cho ra ngoài hết rồi, cứ bình tĩnh"

Dùng M79 và M60 diệt xong 3 thăng ở nhà Hướng Đạo, tôi thấy mệt nhoài. Mới 9 giờ sáng, phát lương khô cho lính ăn và thêm trái sáng để chuẩn bị đón Vịt Con đêm nay. Nó vẫn pháo như mưa. Cả ba thằng của tôi đều chết, 3 thằng Vịt con thường mạng.

11 giờ trưa, Trung Tá Vĩnh bảo tôi là Đại Tá Luật chỉ thị CSDC ra đóng Biệt Điện. " Ông ấy có điên không? Ở đây còn nhìn thấy nó lấp ló, dẫn quân đi một cây rưỡi dọc L19 để đến bùng binh, may lắm còn mình tôi. Địch đang thiếu bia tập bắn" tôi nói. Ông Vĩnh:" Tuỳ toa, moa cũng từ chối rồi"

11 giờ 30, địch ngớt pháo, nó cũng đói bụng, tôi nhủ thầm.
-"Thưa Đại Uý, từ nẫy đến giờ, tiểu khu im lặng, em gọi mãi không được". Thằng Tồn truyền tin báo cáo. Tôi gọi lại Trung Tá Vĩnh, ông cũng xác nhận như thế. Mất rồi chăng?

12 giờ 30, Cọp tới. Qua ống nhòm tôi thấy Biệt Động Quân từ phía chùa Dược Sư đi sau lưng trái tôi, tôi báo cáo nhưng ông Vĩnh nói "Việt Cộng đó, quân ta không tới đâu" Tôi ra lệnh Bộ chỉ huy Cảnh sát chuẩn bị tấn công, thằng Minh M79 khai hoả. Cao đánh thấp, thủ đánh công, không chột cũng què, tôi nghĩ. Minh bắn nhưng không thấy nổ. Bịch ! cầm lên, viên đạn M79 đụng nóc garage chẻ làm đôi Tôi hay tin dị đoan, nói với lính " Thằng nào hy sinh ra, nếu là cọp thì vô cho tao biết, còn là nó thì 'mo'." Quỳ tài xế nai nịt nhảy 10 mét hàng rào ra.

-"Thưa Đại Uý, Cọp chính cống, em gặp Thiếu Tá Bảo, tiểu đoàn trưởng 1/21 rồi, danh hiệu đài đây"

Tôi thở phào, suýt nữa thì đánh nhau mệt nghỉ vì lầm.

14 giờ 30: Trung Tá Vĩnh cho biết: 2 tăng T 54 tấn công ty cũ (trung tâm Hành Quân Cảnh Lực) Ông nói đã bắn hết 8 M72 nhưng không hiệu quả, ông rút và trao quyền chỉ huy cho tôi. Tôi hỏi tình hình và xin lệnh sau cùng:"Tuỳ nghi xử trí"

Thế là hết, chưa bao giờ như thế cả! Đã chán thì chớ, bên Thiếu Tá Thành , chỉ huy phó CSQG Hành Chánh gọi tôi qua họp với bộ tham mựu
Bước chân vào hầm, mọi người đề nghị rút :"Đ.M.! Địch chưa đánh mà rút đi đâu ?". Ông Thành nói: "Tỉnh đã mất hết, mình cứ rút ra ngoài rồi trụ lại chứ đêm nay nó đánh bằng tổng lực chịu sao nổi !" 13 sĩ quan nhao nhao đòi rút .

16 giờ 30: Vịt Con bắt đầu đánh bằng pháo và đại liên . Vỡ quân ! Cảnh sát bên ty chạy ùa qua bên doanh trại đại đội, sợ quá mà vỡ quân . Dã chiến đoạn hậu, ra ngoài chùa Dược Sư đã . Cọp thì ở trung học Tổng Hợp rồi .

6 giờ chiều đi ngang Buôn Koier, tôi gặp Trung Uý Xuân, trưởng phòng 2 tiểu khu, Đại Uý Chương ANQĐ, lại thằng Hải nũa chứ . Nó nói" Tao đụng một dàn B40, tụi nó nằm sẵn trong L19 . Đại đội còn có 46 thằng . Sao giờ này mày mới ra ? Tiểu khu bị 5 chiếc . T54 đánh lúc 11 giờ 30 . Tụi nó bắn 52 quả M72 hạ được 4 chiếc, chiếc sau cùng đứt xích thì mình hết đạn . Nó dùng đại bác 100 ly phơ sập hết . Đáng lẽ minh chưa "out"
Nhưng có thằng A 37 khỉ gió thay vì bỏ bom con cua Việt Cộng, lại nhè cho hầm trung tâm hành quân một quả 250 cân, thế là "mo" . Tụi mình còn một ít chạy hết trọi"

-"Đại Tá Luật chết trong đó hả ?" Tôi hỏi .

-"Sức mấy, ông tỉnh chắc ăn, nên lúc gần sáng ổng phóng từ tư thất qua bộ Tư Lệnh SD 23 (lúc đó chỉ có hậu cứ) thay vì qua tiểu khu . Bây giờ ổng còn ở trỏng "

Hải xin tôi một bản đồ và một địa bàn vì nó vứt lúc bị phục kích trong L 19 rồi . Tôi lấy của Trung Uý Lai đưa nó xài đỡ .

Đêm 10-3-75, tôi và Hải đóng trong chùa Dược Sư cùng với một ít dân chúng đã chạy ra lúc chiều

Ban đêm, nằm trên các tảng đá quanh chùa Dược Sư hút thuốc nhìn lên bầu trời . Sao đêm đó tôi thấy nhiều vì sao chạy thế nhỉ! Tôi nhớ ngày xưa người ta thường nói mỗi khi có người chết là một vì sao bản mệnh của người đó tan đi . Tôi nhớ đến vợ con, không biết đang chạy ở đâu trong vùng khói lửa của đạn thù! Tôi nhớ đến Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã chôn sống 10 ngàn Quân Cán Chính VNCH . Thôi không nghĩ nữa, nghĩ nữa sẽ xụm không thể cầm quân được .

Quanh tôi lúc này là những chiến sĩ Cảnh Sát đang trông vào tôi để hy vọng, để chiến đấu mong đẩy được tụi nó, tụi Việt Cộng ra, 11 giờ đêm, mà mọi người, già trẻ, lớn bé chưa ai ngủ . Người nào quần áo cũng xốc xếch, có cô còn mặc áo ngủ, có người vừa ôm con vừa ôm vợ, vừa cầm cây carbin M1 với một băng đạn . Tôi dụi thuốc và nhắm mắt nghỉ ngơi một chút .

9 giờ sáng 11-3-75: tôi kéo đại binh cảnh sát khoảng 300 nhân viên vào nhà thờ Phú Long đóng quân . Trung Uý Lại trách nhiệm chỉ huy 50 CSDC phòng thủ quanh tường nhà thờ . Tôi nhìn quanh, chỉ chịu đựng đưọc một giờ nếu địch có trọng pháo yểm trợ .

Gặp cha Diệu, cha xứ Phú Long :"Mời Đại Uý dùng cơm" Cha Diệu bảo tôi . "Cảm ơn cha, con không đói, có lẽ con vào Bộ chỉ huy TT Huấn Luyện Trung đoàn 45 đóng quân" Tôi đáp . Tôi ra ngoài nói Tôn truyền tin mở tần số ra liên lạc, gần một giờ sau mới bắt được tần số ."OK cho vào trú quân nhưng toa nhớ điểm từng người,nếu không Ve Chai nó trà trộn vô " Trung Tá Phùng lên tiếng trên máy .

12 giờ 30 trưa, tôi dẫn quân vào Trung tâm giao tuyến giữa cho Thiếu Tá Lê Văn Hoan, Trưỏng F Đặc Biệt cùng 200 CSDB và CSSP . Thiếu Tá Thành chỉ huy phó hành chánh ở hầm trung ương . Tôi cùng 50 CSDC, 5 quân cảnh( tôi lụm được dọc đường), thủ tuyến A . Tôi hỏi một chuẩn uý, cán bộ Trung Tâm về quân số, được biết chỉ có 100 khoá sinh . Tôi xin lại thùng lụu đạn ra phân phát cho các hầm . Sờ vào nắp hầm, chà!! mỏng quá, tôi nghĩ chỉ chịu nổi 82 ly thôi . Chết, bỏ vậy!!

3 giờ 30, một quả pháo đầu tiên rớt vào sân Trung Tâm, rổi tiếp đó bắt đầu như mưa . Qua ống nhòm tôi thấy một tên để lộ. VC mặc đồ lính chạy loanh quanh trong khụ nhà dân cách tôi khoảng 300 mét . "Minh đâu rồi! Minh M79 nhắm bắn cho tao coi mày ?" - Thưa Đại Bàng, thằng này khôn quá, nó né hoài, em bắn không được"

Nhìn ra đường QL1 dọc cổng Trung tâm bên trái tôi, vắng hoe .

Địch pháo liên tục . Oành! Đại uý Đoàn chủ sự phòng hành quân bị thương . Hai nhân viên khiêng Đoàn vào bệnh xá trong mưa pháo . Tôi vỗ vai Tôn, truyền tin cười nói: Đừng nghĩ gì nũa, đây là đất cuối cùng của thầy trò mình, hãy bình tĩnh .

6 giờ chiều, khẩu pháo 105 và xe đạn của trung tâm trúng đạn . Mưa pháo nở giống như pháo đùng ngày Tết . "Hồng Hà 8! Trung Tâm rút ngõ sau rồi!" Tiếng Hoan rè rè trong máy . Tôi đáp "8 nghe rồi" Ngay lúc đó tôi thấy Cọp của Thiếu tá Bảo, một rồi cả trăm . Họ nằm bẹp trước mắt tôi vì pháo . Tôi nhìn Bảo lúc đó còn đeo Ray-Ban gọng vàng . Ra dấu hỏi, Bảo lắc đầu . Cọp bắt đầu di chuyển ngang tôi ra phía mặt sau Trung tâm và tụ quân trên các tường sân bắn . Cọp lì thiệt, giờ này mà nấu cơm .

6 giờ 30 chiều, trời sụp tối, Hoan chạy ra gặp tôi: "Nó vọt hết rồi, bộ mày tính thủ một mặt, Cọp một mặt, còn bỏ lủng hai mặt hả Tuấn ?' Tôi ậm ừ"Ông vào gặp Ông Thành coi sao" Hoan nói Thiếu tá Thành đã vọt rồi . Suy nghĩ một lúc, tôi quyết định rút khỏi Trung tâm vì rộng quá, mà mình chiếm có một mặt, đêm nó giám uýnh lắm . Nhưng đi đâu đây ? Tôi cho quân rút ra xưởng cưa Công Binh cách Trung Tâm Huấn luyện TD 45 khoảng 200 mét

9 giờ đêm tối, Đại uý Xuận trưởng phòng 2 tiểu khu, Trung uý Liên quân cảnh, Thiếu Tá Hoan CSDB họp và quyết định di quân về quận Phưóc An cách thị xã 32 Km về hướng Nha Trang .

Trong lúc này ở phía phi trường Phụng Dực, chi khu Ban Mê Thuột rền súng và lửa .
Trên đường di chuyển đêm theo QL1, tôi gặp hàng hàng lớp lớp dân chạy giặc .

Ngày 12/3/75:

7 giờ sáng, tại Phưóc An . Ô hô!! xe cộ và dân chúng đầy đường! Thiếu uý Lân,(Trung đội trưởng CSDC Phưóc An) và Trung Uý Liệu chỉ huy trưởng cảnh sát ra trình diện tôi cho biết Thiếu tá Hoàng Đình Tập, quận trưởng Phưóc An quyết định lui binh, chạy . Tôi hỏi ông Liệu : Ai cho lệnh chạy ? Liệu lắc đầu đưa hai tay lên trời .

8 giờ sáng, tôi gặp Đại Uý Ba, chỉ huy trưởng CSQG Buôn Hô, "Địch đêm qua tiền pháo, hậu xung, ta chết khoảng 1/2, mở đường máu chạy băng 30 Km rừng sang Phước An"

8 giờ 30 tôi gặp Thiếu tá Trọng, Quận trưởng Ban Mê Thuột cùng Thiếu uý Đức CSDC:"Đêm qua địch sáp lá cà, chi khu vỡ, còn sống duy nhất 13 CSDC và quận trưởng sau khi đột phá vòng vây ra Buôn Kô Tam"

12 giờ đại binh không đầu chạy bộ, chạy xe từ cây số 32 Phưóc An đến 62 M'Rong Hô định về Nha Trang thì ngừng lại, một phần để nghỉ, một phần vì địch chận tại cây số 72 . Tôi hỏi tình hình, địch đóng chốt kiềng một trung đoàn .

Ngày 14/3/75

12 giờ trưa Trung tá Thạnh, tiểu khu phó, mặc áo may ộ xà lõn chạy xe Jeep lùn từ đồi 62 xuống và ra lệnh " Tất cả về Phước An để tái chiếm Ban Mê Thuột . Vui quá vì lại gặp vợ con . Quân lính đâu chuẩn bị . Tôi kéo quân về Phước An lúc 6 giờ chiều, nghỉ tại ngã ba ban đêm .

Sáng 15/3/75

Lúc 7 giờ di chuyển 2 km vô chi khu .

10 giờ chi khu mời họp .

"Báo cáo Đại tá, tôi hiện có 300 quân Cảnh Sát, vũ khí đầy đủ, gồm 120 CSDC, khoảng 100 CSDB, còn lại là CSSP" Tôi trình diện Dại tá Tiếu, người vừa được Quân Đoàn II đưa xuống thay Đại tá Luật mất tích . Các quân binh chủng lần lượt báo cáo quân số . Đại uý Hải tặng tôi một bộ bản đồ, tỉ lệ 1/100000 có Nha Trang, Hải nói để đền ơn tôi đã tặng bản đồ hôm trước . Cũng nhờ bộ bản đồ này mà tôi mới đi được tới Khánh Dương sau này .

Đại tá Tiếu cho biết sẽ tử thủ ở Phước An, đợi quân cứu viện, địch đến là đánh . Tôi được cắt trú quân tại chợ Phước An làm thế ỷ dốc cho chi khu . Tôi về chia quân làm 16 chốt vòng tròn rộng 150 m, mìn Claymore cài lung tung .

44027Nguyễn Ngọc Tuấn
Nguyên Đại Đội Trưởng CSDC
Kiêm Chỉ Huy Phó Hànnh Quân BCH/CSQG Darlac
Chủ tịch Ban Đại Diện Trại Tỵ Nạn Pulau Galang II


16/3/75:

Tại đất trống trước chi khu tấp nập trực thăng lên xuống, chở người đi, đến Vùng ỊI . CSQG Nha Trang cử lên 3 ông để thanh tra, uỷ lạo . Tội nghiệp Thiếu tá Lê Văn Diệu trưởng E, yểm trợ vùng cũng lót tót lên mong gặp vợ con . Ai có vợ con đều được ưu tiên cho đi Nha Trang bằng trực thăng . Vợ con tôi đâu ? Sao không chạy ra nhỉ ? Cũng tại tôi đã nói với vợ là cứ an tâm, ta không thua đâu .

17/3/75:

7 giờ sáng Trung uý Lai, Thiếu tá Thành xin ra ngoài ngã ba, kiếm và thăm vợ cọn . OK! Nhưng về sớm nghe các ông .

Ngay sau đó, khoảng 15 phút, tôi thấy tiếng súng lớn nổ rền vang ngoài ngã ba Phưóc An, kèm theo tiếng súng nhỏ . Khoảng 1 giờ sau, Thiếu tá Thành chạy vào báo cho tôi biết . Tăng Việt Cộng đến nơi . Vào chi khu thôi vậy . Thiếu tá Thọ mời tôi vào họp . Tôi bảo ông Thành vô, vì tôi không thể rời quân lúc này, mà rời thì quân tan ngay . Thiếu tá Thành nói: Đại tá Tiếu chỉ thị cho CSDC vào chi khu tử thủ ngay lập tức, ông cũng cho biết bộ chỉ huy Tiểu khu và Chi khu đã rút chạy ngõ hậu .Thiếu tá Thọ phía hai pháo 105 ly .

Đã 7 năm lính, tôi đâu có khờ để mà làm chốt cho hai ông quan . Tôi ra lệnh quân rút theo đường rừng ra Buôn Phê ở cây số 42, dừng chân nghỉ trong môt vựờn chuối lúc 1 giờ trưa . Đến cây số 62 lúc 7 giờ tối 17/3/75 . Lại kéo quân lên chiếm đồi 62 lần thứ hai .

-"Hưng, mày đó hả ?" Tôi gọi PRC cho Hưng, Thiếu tá TĐT DPQ M'Rong Ho(Chư Kuk) . "Tao đây, cần gì không ?" Nghe tiếng Hưng, tôi mừng quá . Tôi được biết bộ chỉ huy Chi Khu và tiểu khu nằm ở Chư Kuk đầy đủ cả .

Đứng trên đồi nhìn dân Ban Mê Thuột chạy ra, họ đốt lửa trên quốc lộ vòng vèo như con rồng lửa dài khoảng 2 km . Buồn quá, tái chiếm cái gì kỳ quá! Thua đơn giản quá! Dù đâu ? Biệt Cách đâu ? TQLC đâu ? Sao Saigon không gửi lên ? Vợ con đâu ? Nuôi 3 năm, dùng 1 ngày không lẽ tôi đào ngũ, trà trộn với dân ? Không được, cả tỉnh trông vào mình , một súng không đủ, 1000 súng sẽ mạnh .

Ngày 18/3/75

Tôi xuống dưới đường gặp một vài lính SD 23 cầm M16. Họ nói là thuộc trung đoàn 44 trực thăng vận về cứu Ban Mê Thuột (?) Không gặp cấp chỉ huy (?) Đi lang thang .

7 giờ tối, tôi liên lạc Hưng . Thiếu tá Hưng cười trong máy khi tôi xin mua dùm gạo "Gạo cái gì mày! Có ăn bò thì lên tao cho vài con ăn chơi, gạo thì mậu, tao báo cho mày biết sáng mai tao "gô" Nha Trang đây . Tiểu đoàn gì mà còn có 17 lính Kinh, 42 lính Thượng . Tụi Tiểu khu vù hết về Nha Trang hồi chiều bằng trực thăng rồi mày ơi! Tại đây còn có mỗi tao và mày là còn súng còn đơn vị đó, có đi thì đi đi"

8 giờ tối, tôi tập họp các sĩ quan tham mưu của CSDC Darlac lại trong căn lều chì huy . Đi thôi các bạn ơi, 10 ngày không có quân lên cứu . Về hướng đi rừng

Sáng 19/3/75

8 giờ sáng, trời Tây Nguyên còn mù sương núi, đứng trên đồi cao nhìn lại Ban Mê Thuột . Vĩnh biệt em và con yêu dấu !. Vĩnh biệt thành phố buồn !

Trung uý Lai đưa cho vợ và 3 con 50 ngàn đồng "Em ở lại, anh đi theo Đại uý" Nhiều nhiều nữa . Tăng đến cây số 52 nhìn thấy rồi, đánh không nổi đâu vì có ai đâu mà đánh, quân không đầu, cầm PRC 25 gọi khản cổ, vặn đủ tần số . Không có là không .

8 giờ 30, tôi đi đầu đưa 300 quân và 1500 dân chui vào rừng Chu Prong trực chỉ Khánh Dương .

Vĩnh biệt Tây Nguyên! Vĩnh biệt núi rừng! Vĩnh biệt người thân!

GHI THÊM CỦA NGƯỜI VIẾT

Sụ viết này đưọc viết bằng sự mắt thấy tai nghe cũng như bằng sự hạn chế của một người sĩ quan trẻ . Qua một số chiến hữu kể lại, tôi được biết Chiến Đoàn 3 Xung Kích (Lôi Hổ Vùng II) gồm 20 quân đã chiến đấu trong bộ Chỉ huy của họ cho đến khi biết rằng không có quân cứu viện .

Một số ĐPQ, Nghĩa quân đã cùng cha xứ Châu Son(2 km bắc thị xã BMT) chiến đấu được 3 ngày cho đến lúc Việt Cộng phải dùng pháo và tăng đánh . 40 PRU đã mất tích tại Quảng Đức . Một đại đội thuộc Trinh Sát Sư đoàn 23 đã chiến đấu 3 ngày ở Phụng Dực (phi trường chính cách BMT 6 km) v...v...

Và còn nhiều nhiều, rất nhiều người đã ngã xuống, đã bắn địch đến viên đạn cuối cùng để bảo vệ tự do . Tôi rất cảm phục sự hy sinh vô bờ bến của họ . Chúng tôi chỉ muốn hỏi các ông Tướng : Tại sao không đưa quân lên tái chiếm Ban Mê Thuột trong lúc địch chỉ có 45 tăng T54, hai sư đoàn bộ binh, trong đó SD32 Thép chỉ còn tên chứ lính thì toàn mới . SD 316 Thiếu Nhi, nòng cốt chỉ có Trung đoàn 968 Đặc Công!! Vậy mà để sau đó hàng chục ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đã phải rên xiết trong ngục tù khổ sai của Cộng sản trong suốt 10 năm qua . Hàng ngàn chiến sĩ đã chết trong ngục tù vì đói, lạnh, kiệt sức, bệnh tật (80% do kiết lỵ) hàng vạn con cái chiến sĩ đã phải đi bán xổ số, nhặt bao nylon bẩn, nhặt giấy vụn dù tuổi chưa được lên mười .

Tôi nhớ trong kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ có câu:

"Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế luu danh
Trưóc là sĩ sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi đáo thử thị hào hùng "

Tiếc thay! tài hèn sức mọn, quân không đồng lòng rồi còn cái gì nữa nhỉ!



Chú thích
Anh Tuấn viết bài này cách đây 20 năm, anh Tuân đã bị đi tù cộng sản khi ra tù anh đã vượt biên tới Nam Dương hồi tháng 6/1984. Hiện nay anh là một sĩ quan Cảnh Sát của San Diego

sangtrong2000
26-01-2013, 11:09 AM
Nhân kỷ niệm 37 năm Chiến thắng Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Dak Lak (10/03/1975 -10/3/2011), BMTvn.com trích đăng một số phân tích, đánh giá của các tướng lĩnh, sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam về sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; sự phối hợp nhịp nhàng của Tỉnh ủy Dak Lak và các lực lượng vũ trang địa phương; sự chỉ đạo và nghệ thuật quân sự của quân đội ta trong trận đánh Buôn Ma Thuột.

Thiếu thướng, PGS.TS Trịnh Vương Hồng, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Chiến thắng Tây Nguyên 1975 – một thành công xuất sắc về sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta.

Trước ngày hướng chủ yếu tiến công mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột, trên đường 14 (bắc thị xã Buôn Ma Thuột 80 km) hai trung đoàn 48 và 9 (Sư đoàn 320) đã đánh cắt giao thông ở Ea H’Leo (6-3), tiến công giải phóng quận lỵ Thuần Mẫn (8-3); trên hướng nam thị xã Buôn Ma Thuột 50 km, Sư đoàn 10 nổ súng tiến công và làm chủ quận lỵ Đức Lập, Dak Sắk, Dak Song (9-3) đưa thị xã Buôn Ma Thuột vào thế hoàn toàn bị cô lập.

Và khi các đơn vị thực hành tác chiến đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột lần lượt “bóc vỏ” từ vòng ngoài đến vòng trong kết hợp với thọc sâu đột phá liên tục trong vòng 32 giờ (ngày 10 và 11-3), làm chủ mục tiêu, bắt sống toàn bộ bộ máy ngụy quân, ngụy quyền của một tỉnh lỵ thì việc ứng cứu cho nhau tức thời là điều vô vọng. Vì vậy, khi đánh giá thành tích của các đơn vị đã lập công xuất sắc ở thị xã Buôn Ma Thuột cùng với Sư đoàn 316, Trung đoàn 95B, Trung đoàn đặc công 198 và các đơn vị binh chủng, không thể không kể đến công lao của Sư đoàn 968, Sư đoàn 320, Sư đoàn 10 – những đơn vị đã vượt qua không ít gian khổ hi sinh để tạo dựng cho thế trận then chốt quyết định, kể cả việc nghi binh thu hút toàn bộ hỏa lực địch, tạo thuận lợi cho đơn vị bạn; đồng thời để có được chiến công “chặt Buôn Ma Thuột rung cả Tây Nguyên” không thể không nói đến công sức của các đơn vị hậu cần, kỹ thuật, đặc biệt là công lao của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên, trực tiếp là đồng bào tỉnh Dak Lak.

Chiến thắng Buôn Ma Thuột là dấu son trong lịch sử chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta. Đó là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng, của các cấp chỉ huy và nỗ lực của tất cả cán bộ, chiến sỹ và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên bất khuất kiên cường.

44029Quân giải phóng trong chiến dịch Tây Nguyên.


Sau khi bị “đòn điểm trúng huyệt” ở Buôn Ma Thuột, Bộ chỉ huy Quân khu 2 địch ở Pleiku lập tức điều động Sư đoàn 23 được mệnh danh là “Sư đoàn Nam bình, Bắc phạt, cao nguyên trấn” và liên đoàn biệt động quân 21 đang trấn giữ Pleiku và Kon Tum “thực thi tái chiếm thị xã Buôn Ma Thuột” với tham vọng “khôi phục lại tình hình như trước ngày 11-3”. Tuy nhiên mọi cố gắng của Quân khu 2 địch vào “canh bạc khát nước” đều chỉ là vô vọng vì nó không nằm ngoài dự kiến của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên.

Qua hai ngày (10 và 11-3), trong lúc Liên đoàn 21 biệt động quân đổ bộ xuống Buôn Hồ, Đạt Lý chưa kịp “giải tỏa đường 14 chiếm lại Thuần Mẫn” đã bị Trung đoàn 9 (Sư đoàn 320) và Trung đoàn 25 (Mặt trận Tây Nguyên) đánh trả và truy lung quyết liệt đến nỗi “không biết chạy về hướng nào để bảo toàn lực lượng”. Tiếp theo đó, chỉ huy Quân đoàn 2 ngụy “như thiêu thân lao vào lửa” sử dụng gần 150 lần chiếc máy bay lên thẳng đổ cấp tập Trung đoàn 45, pháo đội 232 xuống điểm cao 581 – đường 21 phía đông thị xã (ngày 12, 13-3), đổ Trung đoàn 44 và Sở chỉ huy Sư đoàn 23 xuống Phước An (ngày 15, 16-3) “quyết tái chiếm bằng được Buôn Ma Thuột”.

Song tất cả lực lượng phản kích của Sư đoàn 23 và bộ phận còn lại của Liên đoàn 21 biệt động quân đã bị bộ đội Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 chủ động đón đánh ngay khi chúng vừa tiếp đất. Qua 5 ngày (14 đến 18 - 3) bộ đội ta trên hướng này đã tiêu diệt toàn bộ Sư đoàn 23 và Liên đoàn biệt động quân 21 ngụy, đập tan cuộc phản kích của địch, làm tiêu tan khả năng tái chiếm Buôn Ma Thuột của quân đội Sài Gòn. Chiến thắng đập tan cuộc đột kích của địch ở phía đông thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt thứ hai của chiến dịch, nó báo hiệu sự sụp đổ không cưỡng lại được của địch trên toàn bộ chiến trường Tây Nguyên.

Vì thế, ngay từ khi trận đánh then chốt chưa kết thúc, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nhận định: nếu Quân khu 2 bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, thị xã Buôn Ma Thuột và một số quận lỵ bị mất, đường 19 bị chia cắt, thì lực lượng hiện co cụm ở Pleiku có thể buộc phải rút lui chiến lược, bỏ Tây Nguyên về đồng bằng để bảo toàn lực lượng. Theo dự kiến đó, Bộ chỉ huy tối cao của ta đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cần điều động lực lượng hình thành ngay thế trận bao vây Pleiku, đánh cắt đường bộ, khống chế đường không, triệt đường rút chạy của địch. Nhận định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã diễn ra đúng với thực tế.

Ngày 16 – 3, Đại tướng Văn Tiến Dũng đại diện Bộ Tổng tư lệnh ở chiến trường lệnh cho Bộ tư lệnh chiến dịch: “Địch đã rút chạy theo đường số 7, tổ chức lực lượng truy kích ngay”. Căn cứ tình hình và lực lượng bố trí trên chiến trường, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định điều động Sư đoàn 320 đang triển khai đội hình ở Buôn Hồ và Thuần Mẫn sẵn sàng diệt viện của địch trên đường 14 và chẩn bị giải phóng Cheo Reo đã được lệnh chặn đánh và truy kích Quân khu 2 địch rút chạy. Chỉ huy Sư đoàn 320 đã cho Trung đoàn 64 đứng chân ở phía đông đường 14 vận động tức tốc ra đường 7 (chân đèo Tu Na) đánh vào đội hình Quân khu 2 địch đang rút chạy, chặn đứng lực lượng cơ bản của địch ở thung lũng Cheo Reo.

Ngày 17-3, thị xã Cheo Reo trở thành tụ điểm tập trung hàng chục vạn binh lính địch và dân chúng bị cưỡng ép chạy theo, cùng với trên 2000 xe cơ giới các loại xếp hàng 3 hàng 7 chen nhau tháo chạy hỗn loạn. Chớp thời cơ, Sư đoàn 320 đã tập trung toàn bộ đội hình nhanh chóng đánh chiếm thị xã Cheo Reo, sau đó dùng bộ binh cơ giới truy kích địch rút chạy theo đường số 7 từ phía đông Cheo Reo đến quận lỵ Củng Sơn. Thế là, từ ngày 17 đến 24-3, bằng đợt truy kích thần tốc, táo bạo ta đã tiêu diệt và làm tan rã hầu hết tập đoàn quân địch rút chạy, thu và phá hủy toàn bộ phương tiện chiến tranh của chúng mang theo. Điều quan trọng hơn là ta đã đập tan ý đồ co cụm về phòng thủ miền duyên hải. Chiến thắng trong trận then chốt thứ 3 – truy kích địch trên đường số 7 của chiến dịch Tây Nguyên càng làm cho địch thêm suy yếu trầm trọng, tan rã nhanh chóng hơn, tạo bước chuyển hết sức thuận lợi cho chiến trường toàn miền Nam.

http://img839.imageshack.us/img839/7938/vutrangbmt.jpg (http://img839.imageshack.us/img839/7938/vutrangbmt.jpg)
Lực lượng vũ trang tỉnh Dak Lak diễu binh trong Lễ mít tinh Kỷ niệm 35 năm Chiến thắng Buôn Ma Thuột


Như vậy, trải qua hơn 20 ngày (từ ngày 4 đến 25-3) thực hành tiến công địch trên năm tỉnh Tây Nguyên, quân và dân Tây Nguyên đã diệt và làm tan rã Quân khu 2 ngụy với hai sư đoàn bộ binh (22, 23), một sư đoàn không quân, 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, 8 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn 3 dù, 10 tiểu đoàn pháo binh…loại khỏi vòng chiến đấu (kể cả bắt sống) 30 nghìn lính chủ lực ngụy, diệt và làm tan rã (chủ yếu là phóng thích) hàng chục nghì lính bảo an dân vệ, phòng vệ dân sự và lực lượng cảnh sát, thu và phá hủy hàng trăm máy bay, hàng nghìn xe quân sự, hàng trăm khẩu pháo lớn nhỏ và rất nhiều kho tàng của địch ở Tây Nguyên, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Quảng Đức, Dak Lak.

Chiến thắng to lớn, toàn diện trong chiến dịch Tây Nguyên không chỉ khẳng định sự chỉ đạo tài tình của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tư lệnh chiến dịch, mà còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân nhiều bài học quý báu về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và phương thức tác chiến. Đó là những nét đặc sắc về nghệ thuật chọn hướng tiến công chủ yếu (nam Tây Nguyên) và mục tiêu tiến công then chốt (thị xã Buôn Ma Thuột) trong giai đoạn đầu là rất đúng và rất hiểm.

Rõ ràng đánh vào Buôn Ma Thuột (mục tiêu địch hoàn toàn bất ngờ), ta không chỉ điểm trúng huyệt, đúng nơi hiểm yếu nhất của địch mà còn tạo điều kiện mở ra các hướng phát triển chia cắt địch về chiến dịch, chiến lược; đồng thời trong quá trình chỉ đạo tác chiến chiến dịch, ta còn chủ động tạo được ưu thế tập trung lực lượng, từ đó có thể điều phối chặt chẽ lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động của Bộ tăng cường tác chiến ở những nơi trọng yếu. Biểu hiện nổi bật nhất là trong trận đột phá Buôn Ma Thuột, ta đã tập trung lực lượng lớn đến gấp 4 đến 5 lần đối phương và tiến công trong thế áp đảo quân địch. Nhưng trong hai trận then chốt đánh quân địch phản kích ở Phước An và đánh quân địch rút chạy ở đường số 7 ta chỉ sử dụng lực lượng bằng hoặc ít hơn quân địch nhiều lần mà vẫn giành chiến thắng.

Với ý nghĩa đó, chiến thắng Tây Nguyên tháng 3 – 1975 chẳng những tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng, thế trận giữa ta và địch mà còn dẫn tới sự sụp đổ về chiến lược, tạo ra bước ngoặt quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta thắng lợi hoàn toàn.


Trích từ " Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chiến thắng Buôn Ma Thuột"

hanlinhco
26-01-2013, 11:09 AM
mỗi người mười ý. giờ không còn bị nước khác xâm chiếm là tốt rồi. tớ nào theo chủ đó, nhưng với những người ngoài cuộc chiến như chúng tôi đang sống trong hòa bình thì hiện tại là tốt nhất.>:)